chương trình khoan dung có tác động thúc đẩy thực thi chống hạn chế cạnh tranh một cách hiệu quả. Tuy nhiên, ở Việt Nam, một hành vi vi phạm được áp dụng xử lý theo hình thức phạt tù chỉ khi nó được quy định điều chỉnh trong Bộ luật Hình sự. Mặc dù, Luật Cạnh tranh có ý đồ xử lý phạt tù với các vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, song lại thiếu sự quy định về tội phạm đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh trong Bộ luật Hình sự, mà mới chỉ dừng lại ở điều chỉnh tội phạm kinh tế nói chung và một số tội liên quan tới hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thực tiễn thi hành ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, việc hình sự hóa vi phạm về hạn chế cạnh tranh vẫn là một ý tưởng tốt tăng cường hiệu quả thực thi chống hạn chế cạnh tranh, thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh gây hại nghiêm trọng cho môi trường cạnh tranh và người tiêu dùng. Trong tương lai, chắc chắn các hành vi này sẽ ngày càng tinh vi và phức tạp, vì vậy ở một thời điểm thích hợp nên được xem xét và cân nhắc việc hình sự hóa vi phạm về hạn chế cạnh tranh thông qua việc quy định tội phạm đối với hành vi này trong Bộ luật Hình sự, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc giải quyết và xử lý các vi phạm.
(ii) Cân nhắc trao thêm thẩm quyền điều tra hình sự đối với các vụ việc cạnh tranh cho cơ quan quản lý cạnh tranh
Theo Điều 94, Luật Cạnh tranh năm 2005, thì trường hợp thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền phải chuyển giao hồ sơ vi phạm cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, theo quy định của tố tụng hình sự, thì cơ quan điều tra hình sự sẽ thụ lý vụ việc và tiến hành điều tra vụ án hình sự, cơ quan này lại phải nghiên cứu, xác minh xem có dấu hiệu tội phạm hay không và ra quyết định khởi tố. Điều này sẽ dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ việc nói chung, không những vậy, cơ quan điều tra hình sự cũng không phải đơn vị chuyên trách có năng lực chuyên sâu đối với lĩnh vực hạn chế cạnh tranh, trong khi quy định về tội phạm đối với các hành vi này cũng rất mơ hồ dẫn tới khó khăn khi điều tra và xét xử hình sự đối với vụ án.
Trong khi đó, một số nước như Nhật Bản, quy định luôn thẩm quyền điều tra cho cơ quan quản lý cạnh tranh, sau khi điều tra sơ bộ, nếu Ủy ban Thương mại
lành mạnh thấy cần thiết bắt đầu một cuộc điều tra bắt buộc đối với vụ án hình sự, Ủy ban này có thể tiến hành khởi tố điều tra. Nếu kết quả điều tra cho thấy các cáo buộc hình sự là có căn cứ, cáo buộc này sẽ được chuyển tới Viện trưởng viện kiểm sát [21, tr.261]. Tại Mỹ, Cục Chống độc quyền của Bộ Tư pháp cũng chịu trách nhiệm chính trong các vụ việc hạn chế cạnh tranh cũng như khởi tố vụ án ra tòa nếu thấy có dấu hiệu hình sự [21, tr.273].
Như vậy, quy định trao thêm thẩm quyền cho cơ quan quản lý cạnh tranh về điều tra vụ án hình sự liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh sẽ tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ việc, tránh lãng phí nguồn lực, tận dụng được kết quả của cơ quan điều tra và nguồn nhân lực có năng lực, kinh nghiệm chuyên sâu nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong xử lý vụ việc cạnh tranh.
(iii) Xem xét và cân nhắc trách nhiệm hình sự đối với doanh nghiệp vi phạm quy định về hạn chế cạnh tranh (trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân)
Trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không áp dụng với doanh nghiệp vi phạm, nhưng theo pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh, chủ thể của vi phạm hạn chế cạnh tranh lại là doanh nghiệp. Có thể thấy, hành vi của pháp nhân, nhưng lại chỉ áp đặt hình phạt đối với cá nhân là một điều không hợp lý, bởi pháp nhân cũng được coi là một chủ thể trong quan hệ pháp luật, và đặc biệt trong quan hệ kinh doanh thương mại. Pháp nhân là một thực thể có thực "giống như một con người", có ý thức, có thể tự mình thực hiện hành vi một cách độc lập, do đó có khả năng chịu mọi trách nhiệm về hành vi của mình, trong đó có trách nhiệm hình sự [31]. Bởi vậy, không có gì là không hợp lý khi áp dụng hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội của pháp nhân. Mặc dù tử hình, giam giữ hoặc các hình phạt tước hoặc hạn chế quyền tự do thân thể không thể áp dụng với pháp nhân phạm tội, nhưng những loại hình phạt khác dần dần được phát triển tương hợp hoàn toàn với bản chất các pháp nhân phạm tội với mục đích làm cho nó phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của hành vi phạm tội mà nó đã gây ra cho xã hội, bản thân pháp nhân cũng có khả năng chịu một số hình phạt nhất định của Nhà nước như phạt tiền, giải thể, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ lĩnh vực hoạt động nào đó. Trong đó, hình phạt tiền hiện
vẫn là biện pháp hữu hiệu mà nhiều nước áp dụng, đặc biệt đối với các vi phạm về cạnh tranh. Nếu pháp luật chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự với cá nhân mà không truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong khi chính pháp nhân lại được hưởng nhiều lợi ích mang lại từ hành vi phạm tội thì có nghĩa pháp luật đã bỏ lọt tội phạm. Mặc dù vấn đề doanh nghiệp vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự là một vấn đề lớn đối với hệ thống luật hình sự nước ta, nhưng trong tương lai cũng cần nghiên cứu, cân nhắc để việc áp dụng các hình phạt được đúng chủ thể, đúng tội, nhằm nâng cao hiệu quả của các chế tài.
Ba là: Mở rộng chương trình khoan hồng
Có thể bạn quan tâm!
- Về Trình Tự, Thủ Tục Điều Tra, Xử Lý Và Khiếu Nại
- Đánh Giá Thực Tiễn Xử Lý Các Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh
- Xây Dựng Hệ Thống Chế Tài Đầy Đủ, Đồng Bộ Và Thống Nhất
- Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 14
- Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
Thành công của một cuộc điều tra về hạn chế cạnh tranh, đặc biệt đối với vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bắt nguồn chủ yếu từ việc thu thập được các thông tin từ phía “người trong cuộc” - các bên tham gia thỏa thuận. Trên cơ sở đó, một trong những nhiệm vụ khó khăn của cơ quan cạnh tranh là làm thế nào thu hút được sự hợp tác từ chính các bên trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thực tế cho thấy rằng một chính sách khoan hồng được cơ cấu hợp lý có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ thành công trong nỗ lực chống lại các thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh đáng kể. Thực tiễn thực thi của một số nước tiên tiến như Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU cũng cho thấy tác dụng rõ rệt của Chương trình khoan hồng trong phát hiện và xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Do đó, Việt Nam cũng nên cân nhắc thiết kế một Chương trình khoan hồng riêng, phù hợp với thực tiễn và tập quán kinh doanh, thực thi pháp luật của các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Chìa khóa thành công của một Chương trình khoan hồng chính là phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc minh bạch, rõ ràng kết hợp với hình thức và mức xử phạt phải đủ nặng. Đồng thời, cũng cần quan tâm đến cơ chế bảo mật thông tin về đối tượng khai báo và bảo vệ nhân chứng. Có như vậy, chương trình khoan hồng mới trở thành một công cụ hữu hiệu giúp cơ quan cạnh tranh thực thi hiệu quả các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề khoan hồng mới chỉ có quy định về các tình tiết giảm nhẹ áp dụng với các bên trong một số trường hợp nhất định. Tuy
nhiên, qua 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh cũng có thể thấy quy định về tình tiết giảm nhẹ không giúp phát hiện nhiều vụ việc vi phạm do chưa tạo được động cơ và áp lực lớn để doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trình báo và cung cấp thông tin về thỏa thuận mà họ tham gia. Vì vậy, cần phải bổ sung các quy định về chính sách khoan hồng để tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo chương trình khoan hồng phát huy đúng tác dụng, các quy định về chương trình khoan hồng phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc minh bạch, rõ ràng. Đồng thời, cũng cần quan tâm đến cơ chế bảo mật thông tin về đối tượng khai báo và bảo vệ nhân chứng. Có như vậy, chương trình khoan hồng mới trở thành một công cụ hữu hiệu giúp cơ quan cạnh tranh thực thi hiệu quả các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Ở Châu Á, Nhật Bản là một trong những quốc gia đầu tiên áp dụng chính sách khoan hồng. Khác với Việt Nam, chính sách khoan hồng của một số nước, trong đó có Nhật Bản đa dạng hơn. Ngoài các quy định về tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm, thì chính sách khoan hồng của Nhật Bản còn đề cao sự phối hợp của doanh nghiệp trong việc phát hiện và điều tra hành vi vi phạm thông qua việc quy định việc giảm đến thậm chí miễn hình phạt nếu doanh nghiệp vi phạm báo cáo hành vi vi phạm với cơ quan có thẩm quyền. Nếu nộp đơn đầu tiên trước khi tiến hành điều tra sẽ được miễn tất cả hình phạt, đơn thứ hai trước khi tiến hành điều tra được giảm 50% mức phạt, giảm 30% mức phạt đối với đơn thứ 3 trước khi tiến hành điều tra và giảm 30% mức phạt đối với đơn sau khi tiến hành điều tra [21, tr.258].
Có thể tham khảo bài học kinh nghiệm của Hoa Kỳ và Châu Âu đối về các yếu tố cần thiết để làm nên sự thành công trong chính sách khoan hồng như sau:
+ Cơ chế miễn trừ chế tài phải được trao cho ứng viên nộp đơn xin hưởng khoan hồng đầu tiên. Điều này sẽ tối đa hóa khả năng hợp tác của các bên tham gia thỏa thuận.
+ Chỉ ứng viên nộp đơn đầu tiên mới có thể nhận được cơ chế miễn trừ hoàn toàn, và nếu chương trình được mở rộng đối với các ứng viên nộp đơn tiếp theo thì
phải có sự khác biệt đáng kể trong việc giảm nhẹ mức tiền phạt. Điều này sẽ khuyến khích tối đa các bên tham gia thỏa thuận trở thành bên đầu tiên rút lui và trình báo với cơ quan quản lý cạnh tranh, từ đó làm mất tính ổn định của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Nếu ứng viên nộp đơn sau cũng được hưởng mức khoan hồng tương tự như ứng viên nộp đơn trước thì sẽ dẫn đến kết quả là không ai muốn cung cấp chứng cứ bổ sung.
+ Chương trình phải tối đa hóa tính minh bạch và tính đảm bảo để các ứng viên nộp đơn có thể nhận thức trước được những lợi ích mà họ có thể đạt được nếu nộp đơn xin hưởng khoan hồng.
+ Chương trình phải được tiếp tục kể cả khi cơ quan cạnh tranh đã tiến hành điều tra, nếu các bên tham gia thỏa thuận nhận thức được việc điều tra và khả năng có thể hưởng lợi ích từ chính sách khoan hồng thì tính liên kết trong thỏa thuận sẽ bị giảm sút nghiêm trọng, mục đích của thỏa thuận từ đó sẽ không đạt được như kết quả ban đầu đề ra.
+ Cơ quan cạnh tranh phải đảm bảo tính bảo mật khi áp dụng chương trình khoan hồng và những thông tin mà thu được từ các bên tham gia thỏa thuận.
3.3.1.2. Hoàn thiện trình tự, thủ tục xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh Thứ nhất: Phân định giữa thủ tục xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh và hành
vi cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất luật tư, do vậy quá trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh phải có đơn khiếu nại của bên bị thiệt hại. Ngược lại, pháp luật hạn chế cạnh tranh mang tính chất luật công, vì thế cơ quan nhà nước phải có nghĩa vụ can thiệp một cách chủ động thông qua nhiều kênh thông tin như khiếu nại của bên bị hại, qua các phương tiện thông tin đại chúng… Tuy nhiên, khi thiết lập chung một quy trình tố tụng đối với các hành vi cạnh tranh nói chung sẽ dẫn tới khó xác định trường hợp nào buộc phải có đơn yêu cầu (hay đơn khiếu nại), hoặc trường hợp không buộc phải có để cơ quan quản lý cạnh tranh tiến hành điều tra. Đồng thời, quy định thủ tục tố tụng chung cũng gây ra khó khăn trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ. Đối với các
vi phạm về hạn chế cạnh tranh, đơn khiếu nại chỉ là một trong những cách thức để cơ quan nhà nước phát hiện và tiến hành điều tra, xử lý vụ việc mà thôi. Việc yêu cầu về chứng cứ vi phạm đối với hành vi hạn chế cạnh tranh trong đơn khiếu nại là một việc khó khăn đối với doanh nghiệp bị thiệt hại, người tiêu dùng. Bởi vụ việc hạn chế cạnh tranh, đặc biệt đối với các thỏa thuận hạn chế, vốn đã phức tạp và gây khó khăn cho cơ quan điều tra cạnh tranh huống chi là một doanh nghiệp, người tiêu dùng.
Do vậy, cần cân nhắc quy định thủ tục tố tụng riêng đối với xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh để xây dựng được thủ tục, trình tự giải quyết phù hợp với tính chất của vụ việc nhằm nâng cao hiệu quả xử lý các hành vi vi phạm.
Thứ hai: Về thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh
Đối với cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh cần phải có sự điều chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho bên khiếu nại tố cáo, thông báo hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật tới cơ quan cạnh tranh. Thay vì thủ tục khiếu nại với nghĩa vụ chứng minh thuộc bên khiếu nại, cơ quan cạnh tranh cần phải có cơ chế tiếp nhận tất cả các thông tin về các vấn đề của thị trường để từ đó ra quyết định can thiệp trong trường hợp cần thiết. Điều này sẽ dẫn tới một số thay đổi cơ bản về thủ tục khiếu nại và thụ lý đơn khiếu nại:
+ Tất cả các tổ chức, cá nhân đều có quyền khiếu nại về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh thay vì chỉ người chịu thiệt hại bởi hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh mới có quyền khiếu nại như hiện nay;
+ Người khiếu nại có thể cung cấp thông tin, chứng cứ về khiếu nại của mình tuy nhiên đây không nên là một nghĩa vụ bắt buộc;
+ Cơ quan cạnh tranh cần có thẩm quyền đánh giá các khiếu nại và lựa chọn các vụ việc để điều tra và xử lý. Nghĩa vụ chứng minh trong mọi trường hợp thuộc cơ quan cạnh tranh;
+ Loại bỏ nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng phí xử lý vụ việc cạnh tranh của bên khiếu nại.
Thứ ba: Thẩm quyền tạm đình chỉ hành vi hạn chế cạnh tranh có dấu hiệu vi phạm pháp luật cho Cục Quản lý cạnh tranh
Cục quản lý cạnh tranh có thẩm quyền trong việc điều tra và ra quyết định xử lý vụ việc. Tuy nhiên, xử lý vụ việc kéo dài, thậm chí tới vài năm mà Cục lại không có thẩm quyền trong việc đình chỉ hành vi có dấu hiệu vi phạm. Điều này sẽ làm cho hành vi này sẽ tiếp tục tác động, gây thiệt hại tới các doanh nghiệp đối thủ và người tiêu dùng, đặc biệt đối với các hành vi như thỏa thuận giá, lạm dụng vị trí thống lĩnh để áp đặt giá và điều kiện thương mại bất lợi khác... Chờ đến khi có quyết định chính thức của cơ quan giải quyết thì hành vi này đã gây hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù Nghị định số 116/2005/NĐ-CP có quy định các biện pháp ngăn chặn hành chính trong điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh tại mục 7 Chương III, tuy nhiên chỉ bao gồm các biện pháp: tạm giữ người theo thủ tục hành chính; tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật về cạnh tranh; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Do vậy, cần phải trao cho Cục Quản lý cạnh tranh thẩm quyền tạm đình chỉ hành vi hạn chế cạnh tranh có dấu hiệu vi phạm, đây có thể coi như việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm tạm thời ngừng hành vi hạn chế cạnh tranh bị cho là có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Điều này sẽ nâng cao hiệu quả của pháp luật cạnh tranh trong việc giải quyết các vụ việc vi phạm, hạn chế sự tác động xấu của vi phạm tới người tiêu dùng, tới các doanh nghiệp khác và tới cả nền kinh tế.
Thứ tư: Quy định thời hạn điều tra, xử lý vi phạm phù hợp với tính chất phức tạp của vụ việc
Về thời hạn điều tra, mặt trái của việc quy định thời hạn đó là không có nhiều thời gian để điều tra viên và thành viên Hội đồng cạnh tranh phân tích vụ việc một cách chính xác, toàn diện. Trong khi đó, việc điều tra, xử lý các vụ việc về hạn chế cạnh tranh tương đối phức tạp, không chỉ đòi hỏi những phân tích về quy định của pháp luật, mà còn dựa trên các phân tích kinh tế. Bằng chứng, thông tin trong một vụ việc không chỉ thu thập tại một thời điểm mà còn cả một quá trình, từ trong, trước và sau khi diễn ra hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đối với
những vụ việc không phức tạp, chứng cứ rõ ràng, thì cần tiến hành theo thủ tục rút gọn, rút ngắn thời gian điều tra để đảm bảo vụ việc được xử lý nhanh chóng không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, Việt Nam cần học tập theo các quốc gia có kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh như Nhật Bản, Mỹ hay Châu Âu, theo đó thời hạn điều tra của các vụ việc cạnh tranh, đặc biệt là liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh thường không quy định hay ràng buộc. Tại các quốc gia này, có những vụ việc cạnh tranh thời gian xử lý là 2 năm thậm chí 5 năm, phụ thuộc vào tính chất phức tạp của vụ việc [21].
Thứ năm: Quy định cụ thể hơn về cơ chế đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi vi phạm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi hạn chế cạnh tranh vi phạm sẽ được áp dụng theo các quy định về bồi thường thiệt hại của Bộ luật Dân sự năm 2005. Để cho các quy định về bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh triển khai được trong thực tế rất nhiều vấn đề pháp lý được đặt ra cần có sự hướng dẫn, giải thích từ các cơ quan có thẩm quyền (nhất là từ phía Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công thương). Trong các vấn đề ấy, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau:
+ Xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra. Theo thông lệ chung của các nước, đối với hành vi hạn chế cạnh tranh, chủ thể tiến hành khởi kiện chủ yếu là các doanh nghiệp bị thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra. Vậy nên chăng, pháp luật nước ta nên quy định rõ về vấn đề này.
+ Những loại chế tài dân sự nào có thể áp dụng cho chủ thể có hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo quy định tại Điều 9 Bộ luật Dân sự năm 2005, khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm, chủ thể có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (trong đó có Tòa án) áp dụng một trong các hình thức sau: (a) Công nhận quyền dân sự; (b) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm; (c) Buộc xin lỗi, cải chính công khai; (d) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; (đ) Buộc bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, cần xác định rõ những loại chế tài nào sẽ được áp dụng cho các hành vi hạn chế cạnh tranh.