+ Về mức bồi thường thiệt hại và xác định mức bồi thường thiệt hại. Vấn đề xác định mức bồi thường thiệt hại thực tế do hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra luôn là vấn đề phức tạp. Pháp luật một số quốc gia xác định thiệt hại do hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra trên cơ sở lợi nhuận thu được của chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh đó. Đây cũng là kinh nghiệm mà Việt Nam nên tham khảo và có chính sách rõ ràng cũng như quy định về vấn đề này.
3.3.1.3. Tăng cường năng lực của cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh
Như đã phân tích ở trên, mô hình cơ quan xử lý vụ việc cạnh tranh hiện nay còn nhiều bất cập như sự quá tải trong hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh, vị trí pháp lý của Hội đồng Cạnh tranh chưa tạo điều kiện cho cơ quan này trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bất hợp lý trong phân chia thẩm quyền giữa hai cơ quan này… Do vậy, để nâng cao hiệu quả xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh, một trong những giải pháp quan trọng là phải kiện toàn tổ chức bộ máy xử lý vi phạm. Trong đó, trong tổ chức và vận hành bộ máy này cần đảm bảo nguyên tắc độc lập trong hoạt động của các cơ quan cạnh tranh, đồng thời pháp luật cần thiết khẳng định rõ vị trí của cơ quan xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh trong bộ máy hành pháp, từ đó xác định giá trị của các quyết định mà cơ quan này công bố, xác định trách nhiệm của những thành viên trực thuộc.
Việc lựa chọn mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh là vấn đề quan trọng và có nhiều quan điểm khác nhau tại các nước trên thế giới. Hiện nay, có nhiều mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới, trong đó cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Quốc hội, Chính phủ hoặc bộ… Hiện nay, Việt Nam lựa chọn mô hình cơ quan thuộc Bộ. Với thực trạng hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh cùng với xu hướng tối cao hóa cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới thì trong tương lai, chúng ta nên xây dựng một cơ quan quản lý cạnh tranh thống nhất, trực thuộc Chính phủ [21, tr.242-251]. Kiện toàn cơ quan quản lý cạnh tranh theo mô hình này sẽ đảm bảo được tính độc lập, nâng cao vị thế, hiệu quả hoạt động điều tra và xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, cụ thể:
- Với vị trí là cơ quan ngang bộ sẽ đảm bảo được sự độc lập trong hoạt động điều tra, xét xử vụ việc của cơ quan quản lý cạnh tranh trong nhằm thực thi luật cạnh tranh một cách hiệu quả và công bằng. Độc lập không có nghĩa là phải đứng độc lập, riêng rẽ về mặt tổ chức, không trực thuộc cơ quan chủ quản nào mà là độc lập về hoạt động cũng như, nhiệm vụ, quyền hạn. Các nước có kinh nghiệm quản lý cạnh tranh đều đặt ra yêu cầu trước tiên là cơ quan quản lý cạnh tranh phải độc lập với doanh nghiệp, và với cả những cơ quan có lợi ích gắn bó mật thiết doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với đặc thù của nước ta, khi bộ vẫn là cơ quan chủ quản của một số doanh nghiệp nhà nước thì việc xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh ngang bộ ở Việt Nam là điều cần thiết để thể hiện được vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt vốn có của cơ quan này. Do đó, cần nâng cấp vị trí của cơ quan này và xác định được lộ trình để tách cơ quan quản lý cạnh tranh thành cơ quan ngang bộ.
- Vị trí là cơ quan ngang bộ sẽ nâng cao vị thế của cơ quan quản lý cạnh tranh và tạo điều kiện cho cơ quan này dễ dàng hơn trong việc thực hiện các hoạt động điều tra, xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh có tính đa ngành, đa lĩnh vực cao, xử lý vụ việc cạnh tranh đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ với các cơ quan chuyên ngành. Bên cạnh đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đang giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, đối tượng điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh có thể sẽ là các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.
- Vị trí độc lập của một cơ quan ngang bộ giúp đảm bảo và thúc đẩy việc tập trung chuyên môn, tính công chính, minh bạch và khả năng chịu trách nhiệm và giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm cũng như đào tạo nhân sự, tự chủ về ngân sách hoạt động bảo đảm cho cơ quan quản lý cạnh tranh có thực quyền cao hơn đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà số vụ kiện về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tăng lên một cách đáng kể. Đây cũng là kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ,
Vương quốc Anh, Canada, Úc… nơi cơ quan quản lý cạnh tranh đều có vị trí độc lập và quyền tự chủ, hoạt động rất hiệu quả.
- Xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh thống nhất sẽ nâng cao hiệu quả của điều tra và xử lý vụ việc. Thực tế tổ chức mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam cho thấy, tổ chức riêng rẽ giữa Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh đáp ứng yêu cầu khách quan, độc lập giữa các hoạt động điều tra và xử lý, tuy nhiên hiệu quả quyết định xử lý vụ việc chưa cao do cơ quan tài phán - Hội đồng Cạnh tranh không tham gia điều tra vụ việc. Nếu không có hồ sơ khiếu nại vụ việc, hoặc cơ quan quản lý cạnh tranh không phát hiện có dấu hiệu vi phạm cạnh tranh thì có lẽ, Hội đồng Cạnh tranh cũng không thể phát huy hết chức năng của mình, hay nói cách khác, chức năng của Hội đồng Cạnh tranh có thể xem như là “chức năng phái sinh” từ chức năng của Cục Quản lý cạnh tranh. Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh chỉ xem xét dựa trên kết quả điều tra, chứ không thể biết được mức độ tin cậy của các số liệu điều tra. Nếu như Hội đồng Cạnh tranh được tham gia từ giai đoạn đầu của quá trình điều tra, thì kết quả điều tra sẽ rút ngắn hơn và “tự tin” hơn với quyết định xử lý vụ việc của mình.
Trước đây, Cộng hòa Pháp cũng xây dựng mô hình hai cơ quan như Việt Nam, nhưng Hội đồng cạnh tranh của Pháp còn có các báo cáo viên đóng vai trò như các điều tra viên. Trong một số trường hợp, thông qua các báo cáo viên, Hội đồng có thể tự tiến hành điều tra hoặc tự điều tra bổ sung trên cơ sở những chứng cứ sơ bộ mà Tổng Vụ cạnh tranh và trấn áp gian lận Pháp gửi lên. Sau khi Luật về hiện đại hóa nền kinh tế được ban hành năm 2008, công tác xét xử của cơ quan quản lý cạnh tranh tối cao Pháp sẽ bao gồm cả hoạt động điều tra và xét xử, trước đây vốn tách biệt ở 2 cơ quan: Tổng cục cạnh tranh, tiêu dùng và trấn áp gian lận và Hội đồng Cạnh tranh. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều quy định một cơ quan nhà nước về cạnh tranh chung chịu trách nhiệm cả về điều tra và xử lý vụ việc [21, tr.248].
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Thực Tiễn Xử Lý Các Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh
- Xây Dựng Hệ Thống Chế Tài Đầy Đủ, Đồng Bộ Và Thống Nhất
- Hoàn Thiện Trình Tự, Thủ Tục Xử Lý Các Vụ Việc Hạn Chế Cạnh Tranh Thứ Nhất: Phân Định Giữa Thủ Tục Xử Lý Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh Và Hành
- Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
Do đó, có thể nhận thấy rằng, việc hợp nhất Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh của Việt Nam hiện nay thành một cơ quan duy nhất sẽ mang lại nhiều lợi ích, khắc phục được những nhược điểm còn tồn tại, phù hợp với xu hướng
chung của các nước trên thế giới. Cơ quan hợp nhất của Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh sẽ là cơ quan ngang bộ, trực thuộc Chính phủ. Trong cơ quan này phải tách riêng bộ phận điều tra và bộ phận xử lý vụ việc độc lập với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhưng phải kết hợp trong việc xử lý vụ việc, nhân sự hoạt động theo chế độ chuyên trách, xây dựng chế độ các báo cáo viên (như cơ quan quản lý cạnh tranh của Cộng hòa Pháp hiện nay)… Điều này, sẽ giải quyết được một số hạn chế như đã nêu, thúc đẩy quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh nhanh chóng, kịp thời.
3.3.2. Các giải pháp bổ trợ khác
3.3.2.1. Tăng cường tính kiểm soát của nhà nước trong các hoạt động kinh tế Bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý hoàn chỉnh liên quan đến chế tài hạn
chế cạnh tranh, để các quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là các quy định về chế tài xử lý được hiệu lực, hiệu quả trên thực tế, cần thiết phải thực hiện một số giải pháp:
- Nâng cao chất lượng của hoạt động quản lý cạnh tranh:
+ Bổ sung chế độ thống kê, kế toán riêng đối với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường;
+ Tăng cường nghĩa vụ thông báo, báo cáo định kỳ của doanh nghiệp;
+ Cần có quy định hướng dẫn để nhanh chóng hình thành cơ chế kiểm soát tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là các hoạt động giám sát thông qua thị trường nhằm phát hiện kịp thời các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp làm cản trở, hạn chế cạnh tranh trong các ngành hay các lĩnh vực của nền kinh tế. Bên cạnh cơ chế kiểm soát, quản lý từ các thiết chế nhà nước, cần phát huy vai trò của các hiệp hội ngành nghề, của người tiêu dùng trong xã hội và đại diện của họ là Hội bảo vệ người tiêu dùng.
+ Thông qua hoạt động chấp hành các quy định pháp luật về thuế, kiểm toán nhà nước kiểm toán độc lập để xác định rõ tiềm năng và quy mô phát triển của các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực và trong từng địa bàn để xác định vị trí của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự kiểm soát hiệu quả quá trình thành lập, sáp nhập,
hợp nhất, mua lại doanh nghiệp để phá vỡ sự các hoạt động liên doanh hay tập trung kinh tế khác tạo ra sự hạn chế cạnh tranh trong mọi lĩnh vực sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ của nền kinh tế [28].
+ Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh. Xây dựng mối quan hệ công tác chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh đối với các cơ quan quản lý về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, về sở hữu trí tuệ, xuất nhập khẩu, lực lượng hải quan và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan trong việc kiểm soát hoạt động của các chủ thể kinh tế trên thị trường Việt Nam để kiểm soát hiệu quả các hành vi hạn chế cạnh tranh [28]. Cần có một kênh thông tin để trao đổi cơ sở dữ liệu liên quan đến thông tin doanh nghiệp phải báo cáo cho cơ quan chức năng giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và các cơ quan chuyên ngành như Tổng cục thống kê, Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Ngân hàng nhà nước, các cơ quan điều tiết ngành.
Đối với vụ việc liên quan tới tập trung kinh tế, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành. Hiện nay, chỉ có Điều 38 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định về vấn đề này bằng trách nhiệm của cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc gửi trả lời thông báo tập trung kinh tế đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Các nội dung trong việc kiểm soát tập trung kinh tế như việc xác định thị trường liên quan, tính toán thị phần kết hợp, tác động của vụ việc đến cơ cấu cạnh tranh của thị trường… không đơn giản và có thể phát sinh những cách thức xác định, những quan điểm khác nhau. Do đó, cơ chế phối hợp không thể hiểu giản đơn là việc thông tin mà còn là cơ chế phân công, liên kết để thống nhất các quy trình tính toán, phương thức kiểm soát hợp lý, hiệu quả.
+ Cần xây dựng một cơ chế giám sát xã hội đối với khả năng xảy ra các hành vi hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Dựa trên danh sách cách thị trường cần giám sát, cơ quan quản lý cạnh tranh nên thiết lập các kênh giám sát từ xã hội bằng cách công bố công khai những doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền trên thị trường. Từ đó, mọi thành viên của thị
trường (bao gồm cả người tiêu dùng) có cơ sở để thực hiện quyền giám sát, phát hiện các hành vi có dấu hiệu vi phạm.
Như vậy, thực thi hiệu quả các quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh không chỉ là nỗ lực của riêng hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh và các quy định pháp luật chống hạn chế cạnh tranh, mà nó cần sự điều tiết một cách tổng thể, đồng bộ trong lĩnh vực kinh tế khác và thiết chế quản lý kinh tế. Cần thiết phải có sự phát triển đồng bộ và hiệu quả các thiết chế quản lý kinh tế; bổ sung, hoàn thiện và phát huy hiệu quả của hệ thống pháp luật về thuế, tài chính – kế toán, kiểm toán, quản lý, giá cả, sở hữu trí tuệ… xây dựng và phát huy hiệu quả cơ chế giám sát thị trường, kiểm soát hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp; đảm bảo sự minh bạch, bình đẳng trong hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và thậm chí trong các chính sách chủ trương phát triển kinh tế - xã hội ở mức giới hạn cần thiết.
3.3.2.2. Nâng cao nhân lực trong xử lý vi phạm hạn chế cạnh tranh
Nâng cao nhân lực và vật lực của cơ quan quản lý để tăng hiệu quả trong công tác. Đặc biệt là việc chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ cũng như kinh nghiệm để giải quyết các vụ việc hạn chế cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, người tiêu dùng. Nâng cao năng lực của cán bộ xử lý không chỉ về chuyên môn pháp lý mà còn chuyên môn trong lĩnh vực cạnh tranh, có như vậy thì công tác điều tra và xử lý mới thực sự hiệu quả, đảm bảo tính đúng đắn trong quyết định xử lý. Trong thời gian tới, Bộ Công thương cần có biện pháp thích hợp để phát triển đội ngũ điều tra viên cả về số lượng và chất lượng, thông qua các chương trình đào tạo toàn diện phù hợp với công tác điều tra vụ việc cạnh tranh (trong nước, phối hợp đào tạo với cơ quan điều tra công an, Viện kiểm sát và hợp tác đào tạo với nước ngoài trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm nghề).
Bên cạnh đó, đối với những vụ việc hạn chế cạnh tranh thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh, các tòa án thường thiếu cán bộ hiểu biết chuyên sâu về Luật Cạnh tranh, do đó dẫn tới khó khăn trong quá trình xét xử. Vì vậy, cũng cần nâng cao kiến thức về cạnh tranh cho thẩm phán để đảm bảo được tính đúng đắn trong phán quyết của tòa.
3.3.2.3. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật và đạo đức kinh doanh cho doanh nghiệp
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả
Pháp luật cạnh tranh sẽ chỉ có được sức sống trong đời sống thị trường khi nó được xã hội chấp nhận và tôn trọng. Các biện pháp chế tài chỉ đạt được mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa khi các doanh nghiệp, hiệp hội nhận thức và điều chỉnh hành vi kinh doanh của mình không vi phạm pháp luật hạn chế cạnh tranh để không phải chịu chế tài. Với thực tế là một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm, thậm chí còn xa lạ với luật cạnh tranh nói chung và hạn chế cạnh tranh nói riêng, và chưa có thói quen trong việc sử dụng Luật Cạnh tranh như một công cụ để bảo vệ mình trước những hành vi bất chính trong kinh doanh, đã đặt ra nhiệm vụ cần tăng cường hơn nữa hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cạnh tranh trong cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội. Ví dụ như đối với việc thực hiện nghĩa vụ thông báo tập trung kinh tế, có một thực tế là nhiều doanh nghiệp có thị phần tương đối lớn, khi thực hiện tập trung kinh tế nhưng hoàn toàn không lưu ý đến thủ tục thông báo mà chỉ đến khi nộp đơn thay đổi đăng ký kinh doanh tới Sở Kế hoạch - Đầu tư mới được yêu cầu tham vấn với cơ quan quản lý cạnh tranh về nghĩa vụ này. Do vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh nói chung và các quy định về tập hạn chế cạnh tranh nói riêng tới cộng đồng doanh nghiệp.
Đặc biệt, việc phổ biến pháp luật chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh và các vấn đề liên quan, đặc biệt là quyền khiếu nại của doanh nghiệp là cần thiết để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, góp phần đẩy mạnh tác dụng phòng ngừa, giáo dục, răn đe của hệ thống chế tài, khuyến khích doanh nghiệp phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh trong việc phát hiện và xử lý vi phạm hạn chế cạnh tranh. Phổ biến pháp luật cạnh tranh đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều ngành,
nhiều cấp và sử dụng nhiều phương tiện khác nhau. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của hiệp hội, nghiệp đoàn, các cơ quan truyền thông, báo chí, hội bảo vệ người tiêu dùng… Chỉ khi nào có sự phối hợp đồng bộ và tích cực của nhiều cơ quan, tổ chức mới có thể đảm bảo tuyên truyền pháp luật được sâu rộng trong cộng đồng doanh nghiệp và trong xã hội.
- Nâng cao đạo đức kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp
Trước khi chống hãy học cách xây, trước khi bài bác cạnh tranh bất chính hãy góp phần giáo dục đạo đức kinh doanh lành mạnh [32, tr.879]. Các hành xử của doanh nhân thường phản ánh đạo đức của toàn xã hội. Do vậy, không chỉ tăng cường kiểm soát hạn chế cạnh tranh, phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, chống các vi phạm cần phải từ việc xây dựng lại đạo đức kinh doanh. Điều quan trọng là doanh nghiệp phải hiểu được rằng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng sẽ giúp tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, phát triển. Muốn thực hiện được điều này, một vấn đề hết sức quan trọng đặt ra là phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình hoàn thiện và tuyên truyền pháp luật cạnh tranh tại nước ta.
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức kinh doanh cho người kinh doanh là rất quan trọng, nó là cơ sở nền tảng cho một xã hội kinh doanh lành mạnh. Cần phải làm cho những người kinh doanh có nhận thức đúng đắn về mục đích kinh doanh, nó không chỉ đem lại lợi nhuận cho họ mà còn phục vụ cho cuộc sống của người tiêu dùng, vì vậy lợi nhuận không phải là trên hết. Phải tuyên truyền cho người kinh doanh có ý thức về trách nhiệm của mình đối với xã hội, với cộng đồng. Một số biện pháp tuyên truyền, phổ biến cụ thể có thể áp dụng như:
+ Đưa nội dung pháp luật chống hạn chế cạnh tranh đến với cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng thông qua tư vấn, tuyên truyền pháp luật.
+ Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trong tuyên truyền, thông qua đó, mỗi người dân, thương nhân hiểu quy định pháp luật, định hướng cho hành vi kinh doanh của mình.
Nội dung tuyên truyền cần giúp các doanh nghiệp nhận diện hành vi hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp luật và quyền khiếu nại, khởi kiện của doanh nghiệp bị xâm hại, các hình thức chế tài có thể được áp dụng đối với doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Các nội dung khác như trình tự, thủ tục khiếu nại, khởi kiện đối với hành vi hạn chế cạnh tranh, phạm vi chứng minh, kinh nghiệm xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh cũng cần được tuyên truyền, phổ biến.
Các trường quản trị kinh doanh, các khóa đào tạo của hiệp hội công thương