21
quyền được chối tội mà không bị tăng nặng hình phạt, quyền được coi là không có tội khi các cơ quan tiến hành tố tụng không tìm đủ chứng cứ kết tội, quyền được áp dụng nguyên tắc có lợi cho người bị tình nghi phạm tội thì cần bổ sung những quy định rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bằng mọi cách phải chứng minh được sự thật khách quan của vụ án [2, tr.24].
Bài viết “Hoàn thiện quy định của Bộ luật TTHS bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” của Vũ Gia Lâm, năm 2015 [54]. Tác giả làm rõ thực trạng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm và sự cần thiết phải đổi mới thủ tục tố tụng tại phiên tòa nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng; đưa ra một số đề xuất đổi mới thủ tục phiên tòa theo hướng đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm. Đáng chú ý, tác giả nhấn mạnh việc đồng ý với quan điểm “tranh tụng phải được xác định là từ khi mở phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa”, “chủ tọa phiên tòa chỉ nên hỏi có tính chất nêu vấn đề, còn lại những câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội, dành cho KSV và người bào chữa” [54].
Bài viết “Quyền im lặng trong TTHS” của Nguyễn Võ Linh Giang, năm 2016 [30]. Tác giả đã phân tích vai trò của quyền im lặng trong TTHS và các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện. Theo tác giả, quyền im lặng là một bảo đảm cần thiết trong TTHS khi đặt trong mối quan hệ với nguyên tắc tranh tụng. Trong mối quan hệ này, quyền im lặng bảo đảm sự bình đẳng giữa bên gỡ tội và bên buộc tội. Thời điểm xuất hiện tranh tụng là thời điểm xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội, tức là khi có hành vi tố tụng, lấy lời khai của người bị tình nghi phạm tội, khởi tố bị can… Thời điểm kết thúc tranh tụng là thời điểm kết thúc chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội, đó là khi tòa án đã ra bản án và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Quyền im lặng cũng xuất hiện và kết thúc cùng lúc với thời điểm xuất hiện và kết thúc của tranh tụng. Nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS năm 2015 và quyền im lặng tạo thành những bảo đảm cho thủ tục tố tụng công bằng, để bên bị buộc tội - bên yếu thế có quyền yêu cầu sự trợ giúp của luật sư hoặc người bào chữa, hoặc giữ im lặng để tự bảo vệ chính mình trước hành vi vi phạm tố tụng của những người tiến hành tố tụng.
Bài viết: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Bộ luật TTHS năm 2015 và việc triển khai thực hiện” của Vũ Gia Lâm, năm 2017 [62]. Những quy định của
22
pháp luật về nguyên tắc tranh tụng được tác giả phân tích, làm rõ; đồng thời, tác giả đi sâu bàn về thời điểm bắt đầu tiến hành các hoạt động tại phiên tòa thể hiện sự tranh tụng, xác định những giải pháp cơ bản để tranh tụng có hiệu quả.
Ngoài ra, bàn về vấn đề tranh tụng trong TTHS còn có nhiều bài viết khác như: “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Mai [61]; “Cần sắp xếp lại những nguyên tắc cơ bản và bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS” của Đinh Thị Thanh Tâm [95]; “Cơ sở lựa chọn mô hình TTHS đáp ứng yêu cầu CCTP ở Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Chí [21]; “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự” của Nguyễn Kim Chi [19]; “Đổi mới thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm theo hướng bảo đảm nguyên tắc tranh tụng” của Vũ Gia Lâm [53]; “Ảnh hưởng của mô hình TTHS tới tính độc lập của tòa án” của Quản Thị Ngọc Thảo - Lê Lan Chi [98]; “Thực tiễn tranh tụng trong TTHS Việt Nam và việc hoàn thiện Bộ luật TTHS để hiện thực hóa nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp năm 2013” của Nguyễn Văn Huyên [44]; “Cần thể chế hóa nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS sửa đổi” của Hoàng Thị Liên [57]; “Một số kiến nghị góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hình sự” của Nguyễn Thị Thúy Hằng [34]; “Bình luận về nguyên tắc tranh tụng trong Dự thảo Bộ luật TTHS sửa đổi” của Nguyễn Thái Phúc [73]; “Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử bảo đảm tinh thần Hiến pháp năm 2013” của Phạm Văn Tuyển [115]; “Những nội dung mới cơ bản của Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng trong giai đoạn XXST” của Đào Văn Cường [22]; “Nguồn chứng cứ trong luật TTHS của một số nước theo mô hình kết hợp tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn” của Phạm Quang Huy và Tô Thị Loan [42]; “Kinh nghiệm bảo đảm tranh tụng trong XXST vụ án hình sự của Liên bang Nga và đề xuất cho Việt Nam” của Trần Tuấn Vũ và Trần Kim Chi [156]; “Quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về tranh tụng và giải pháp hoàn thiện” của Nguyễn Hải Ninh [67]; “Các yếu tố tranh tụng trong mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống của Việt Nam” của Võ Minh Kỳ [52]…
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 1
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 2
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 3
- Tình Hình Nghiên Cứu Ở Nước Ngoài
- Đánh Giá Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án
- Khái Niệm, Đặc Điểm Và Yêu Cầu Của Cải Cách Tư Pháp Về Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
Trong các công trình nêu trên, các tác giả thực hiện ở các thời điểm khác nhau (trước hoặc sau khi có các Nghị quyết chuyên đề của Đảng về CCTP; trước hoặc
23
sau khi ban hành Bộ luật TTHS năm 2015), với các cấp độ nghiên cứu khác nhau (đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, sách tham khảo, luận án, luận văn, bài viết…), nội dung đề cập rộng hoặc hẹp, được tiếp thu hoặc chưa được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015; nhưng đều phản ánh sự đầu tư nghiên cứu, tìm tòi, làm rõ bản chất của hoạt động tranh tụng trong TTHS, đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động này trong TTHS đáp ứng yêu cầu của công cuộc CCTP, trong đó có một số nội dung mang tính lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài luận án, có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh thực hiện đề tài.
- Các công trình nghiên cứu về tranh tụng, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự nói chung và tranh tụng, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp nói riêng.
Tại phiên tòa hình sự, chủ thể tranh tụng là KSV có vị trí đặc biệt. Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, nâng cao chất lượng xét xử, góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án và giải quyết vụ án đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, nghiên cứu về tranh tụng và chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự được tiến hành ở nhiều cấp độ. Tiêu biểu có các công trình khoa học sau đây:
+ Về các đề tài khoa học các cấp:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2008: “Vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam theo tinh thần CCTP” do Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm [101]; bên cạnh việc đề cập tới vấn đề tranh tụng, chất lượng tranh tụng trong TTHS nói chung; các tác giả có phần trình bày thực tiễn hoạt động tranh tụng của chủ thể là KSV tại phiên tòa, gắn liền với việc đánh giá trình tự, thủ tục xét xử cũng như vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng. Đề tài nhận định: VKS, với tư cách là cơ quan thực hành quyền công tố, có trách nhiệm rất lớn trong việc chứng minh tội phạm cùng Toà án. Việc tranh luận tại phiên toà để tìm ra sự thật khách quan của vụ án phải được coi là quyền và trách nhiệm của tất cả các chủ thể tham gia tố tụng. Tuy nhiên, có lúc, có nơi việc tranh tụng tại phiên toà còn nhiều hạn chế, vừa chưa bảo đảm tốt quyền dân chủ của nhân dân, vừa chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm từ các cơ quan tiến hành tố tụng. Đề tài cũng đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của KSV trong hoạt động tranh tụng tại phiên
24
tòa gồm: Trình độ nghiệp vụ, chuyên môn còn hạn chế; tinh thần trách nhiệm của không ít KSV chưa cao; thiếu một cơ chế pháp lý để đảm bảo cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa được thực chất hơn, hiệu quả hơn; chưa có được một đội ngũ Luật sư “chuẩn”, chưa thực sự có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của Luật sư nên ch- ưa tạo ra được “động lực” thúc đẩy việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của KSV; trong quy định pháp luật và trong thực tiễn tiến hành hoạt động tố tụng, chưa phân định được, chưa làm rõ được chức năng cụ thể, vai trò thực sự của các cơ quan tố tụng trong hoạt động tranh tụng. Trong các giải pháp mà đề tài đề xuất nhằm tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, có giải pháp đẩy mạnh việc sắp xếp lại tổ chức, cán bộ, bố trí những KSV thực sự có năng lực vào thực hành quyền công tố - kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố - kiểm sát xét xử; tăng cường việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh và trách nhiệm cao của đội ngũ KSV; phân định rõ hơn chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử; tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra; nâng cao vai trò của người bào chữa trong quá trình tố tụng, đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ Luật sư…
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2015: “Xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS mới theo Hiến pháp năm 2013” do Nguyễn Mai Bộ làm chủ nhiệm [17]. Trong chuyên đề 6, tác giả Nguyễn Mai Bộ có phần phân tích về thực trạng hoạt động tranh tụng của các chủ thể trong TTHS. Trong đó, tác giả nêu lên các vấn đề về giới hạn, bản chất của tranh tụng trong TTHS, thực trạng hoạt động tranh tụng của các chủ thể và một số kiến nghị. Tác giả đã viện dẫn khái niệm tranh tụng, nêu lên giới hạn của việc tranh tụng, khẳng định các chủ thể tham gia hoạt động này tại phiên tòa hình sự (sơ thẩm, phúc thẩm) bao gồm bên buộc tội và bên gỡ tội (bào chữa), liệt kê các chủ thể thuộc bên buộc tội, trong đó có VKS. Tác giả khẳng định: Tại phiên tòa, VKS tranh tụng là để bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Tác giả cũng chỉ rõ một số hạn chế trong tranh tụng của KSV tại phiên tòa, trong đó đáng chú ý là có nhận định “tại các phiên tòa hình sự, KSV… thường ít tham gia xét hỏi hoặc hỏi lại những vấn đề mà HĐXX đã xét hỏi làm rõ trước đó” [17, tr.272]. Nhằm hạn chế những bất cập về vấn đề này, tác giả đưa ra một số kiến nghị, trong đó yêu cầu sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan. Trong
25
Chuyên đề 7 của tác giả Lê Quốc Thể, khi trình bày về chức năng của VKS trong TTHS, tác giả có phân tích về quan niệm tư cách tố tụng của KSV tại phiên tòa “vừa là người tham gia phiên tòa, vừa là người tiến hành tố tụng” [17, tr.286], khẳng định đây là quan niệm không đúng, có thể dẫn đến vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tranh tụng.
+ Về kỷ yếu Hội thảo khoa học:
Kỷ yếu Hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam” do Viện chính sách công và pháp luật thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang và Học viện chính trị khu vực IV thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức tại An Giang, ngày 30/5/2014, có một số bài viết về vấn đề tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự. Trong đó có các bài viết sau:
Bài viết của tác giả Trần Thị Hương về “Tranh tụng tại phiên tòa theo Hiến pháp 2013” [45, tr.290-295], đã phân tích nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng của ngành Kiểm sát nhân dân (KSND) là triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, khẳng định KSV vừa là chủ thể tiến hành tranh tụng, vừa có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX để bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng. Tác giả nêu lên những giải pháp của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) đã thực hiện nhằm nâng cao chất lượng và kỹ năng tranh tụng của KSV tại phiên tòa; đồng thời đề xuất một số kiến nghị sửa đổi Bộ luật TTHS hiện hành nhằm bảo đảm nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng trong xét xử” như khẳng định nguyên tắc này trong Bộ luật TTHS, phân định chức năng công tố của VKSND và chức năng xét xử của Tòa án, cải tiến các thủ tục tại phiên toà để bảo đảm tranh tụng dân chủ, bình đẳng, đề cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng…
Bài viết của tác giả La Hồng “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng: Nguyên tắc hiến định quan trọng trong việc đổi mới Bộ luật TTHS Việt Nam” [39, tr.296-299], đã đưa ra những nhận xét, đánh giá về hạn chế tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự như: Đa số các trường hợp VKS chỉ thu thập chứng cứ buộc tội, không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội (ảnh hưởng đến tính khách quan, đầy đủ của chứng cứ trong hồ sơ); ở một số phiên tòa, sự đối đáp của KSV mang tính hình thức, không tích cực, nghĩa vụ chứng minh còn thụ động… Tác giả thừa nhận, ở
26
giai đoạn xét xử, phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hoạt động thực tiễn trong việc xét xử; tạo ra môi trường dân chủ, bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền nâng cao năng lực, trình độ; hạn chế được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần để Tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử; tác giả đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có việc KSV thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm trong việc nghiên cứu hồ sơ, nắm chắc chứng cứ buộc tội, tiến hành đối đáp đầy đủ; nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng phải lấy thủ tục tại phiên tòa là tâm điểm, sửa đổi trình tự xét hỏi, trong đó việc xét hỏi để buộc tội, gỡ tội chủ yếu do KSV và người bào chữa thực hiện, Tòa án là trọng tài, vô tư khách quan để ban hành phán quyết.
+ Về luận án, luận văn (ngành Luật):
Luận án “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm trong TTHS Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Kiện, năm 2016 [51]. Trong luận án, tác giả có phân tích về mối quan hệ giữa các chủ thể tiến hành tố tụng với nhau và với người tham gia tố tụng trong hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Trong đó, tác giả đã làm rõ mối quan hệ giữa HĐXX và KSV trên hai bình diện là mối quan hệ phối hợp và mối quan hệ chế ước; mối quan hệ giữa KSV với người bào chữa, biểu hiện ở việc vừa là quan hệ phối hợp vừa là quan hệ đối tụng.
Luận án “Chất lượng thực hành quyền công tố của KSV tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam” của Trần Văn Quý, năm 2017 [91]. Tác giả đã có sự phân tích khá sâu sắc từ cơ sở lý luận, đến thực trạng, để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của KSV tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm, bám sát yêu cầu CCTP ở Việt Nam.
Luận án “Hoàn thiện pháp luật về KSV Viện Kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam” của Lê Tuấn Phong, năm 2017 [72]. Trong luận án, tác giả khái quát các yêu cầu của CCTP đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật về KSV, nhấn mạnh việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
27
viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải đáp ứng được năm yêu cầu. Đó là, yêu cầu “…hướng tới mục tiêu xây dựng một nền tư pháp độc lập, trong sạch, vững mạnh, gần dân, thuận lợi cho dân, hoạt động có hiệu quả, bảo vệ trật tự, kỷ cương, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” [72, tr.50]; “gắn liền với hoàn thiện pháp luật về KSV trong kiểm sát hoạt động tư pháp” [72, tr.50]; “xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý của KSV bảo đảm để KSV thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, tăng cường trách nhiệm công tố của KSV trong hoạt động điều tra, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử” [72, tr.51]; “phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp giữa Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo hướng tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho KSV…” [72, tr.51]; “bảo đảm tăng cường được cơ chế kiểm soát quyền lực và kiểm tra, giám sát của Nhân dân đối với hoạt động thực hành quyền công tố của KSV” [72, tr.51].
Luận án: “Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh tại phiên tòa XXST hình sự ở Việt Nam” của Trần Thị Hương, năm 2018 [46]. Tác giả đã phân tích cơ sở lý luận, thực trạng, quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh diễn ra tại phiên tòa. Trong đó, đáng chú ý tác giả đã chỉ ra một số tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của KSV Viện Kiểm sát tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự, làm cơ sở để đánh giá thực trạng chất lượng tranh tụng của KSV và đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh như giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tranh tụng của KSV; nâng cao năng lực tranh tụng của KSV; cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất...
Luận án “Chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” của Phạm Văn Tuyển, năm 2019 [116]. Tác giả xác định yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng XXST vụ án hình sự, khẳng định yêu cầu đầu tiên là “yêu cầu của CCTP ở Việt Nam hiện nay” [116, tr.127]. Trên cơ sở khái quát chủ trương, quan điểm về CCTP của Đảng, tác giả nhấn mạnh nâng cao chất lượng XXST vụ án hình sự là nhiệm vụ trọng tâm của CCTP; qua đó, “góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
28
vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN” [116, tr.128] và là “một trong các nội dung đột phá, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực của hoạt động xét xử” [116, tr.130]. Trong đó, tác giả có nêu vấn đề bên cạnh việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án thì các cơ quan điều tra, VKS cũng phải không ngừng nâng cao năng lực của mình.
Luận án “Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của La Thị Quế, năm 2021 [77]. Trong luận án, khi trình bày về thực trạng các nguyên tắc pháp lý thực hiện quyền tư pháp, tác giả khẳng định một số ưu điểm và hạn chế của KSV thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa; nêu nguyên nhân “do KSV chưa nhận thức một cách đầy đủ các yêu cầu của CCTP và các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKSND, của Kiểm sát viên VKSND trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát XXHS” [77, tr.82]. Tuy nhiên, luận án lại không chỉ rõ các yêu cầu của CCTP đối với KSV như thế nào.
Luận án “Đánh giá chứng cứ trong TTHS Việt Nam” của Trần Văn Tuân, năm 2021 [110]. Trình bày về phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động đánh giá chứng cứ trong TTHS, tác giả khẳng định “Hoạt động đánh giá chứng cứ trong giải quyết các vụ án hình sự của cơ quan điều tra, VKS, Tòa án cần gắn liền với mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của Đảng về CCTP” [110, tr.131]. Cụ thể hóa phương hướng này, tác giả xác định “các cơ quan tiến hành tố tụng phải không ngừng phát huy vai trò và đảm bảo hiệu quả trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [110, tr.135], đồng thời tiến hành nhiều hoạt động như cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, thực hiện tốt công tác quản lý…
Ngoài ra, có một số luận văn thạc sĩ luật học đề cập đến vấn đề tranh tụng của KSV như: Luận văn “Năng lực tranh tụng của KSV thực hành quyền công tố tại phiên toà XXST hình sự ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Anh Phương, năm 2007 [74]; “Tranh tụng giữa KSV và người bào chữa tại phiên tòa hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thi ̣ Hằng Như, năm 2009 [66]; “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hải Phòng” của Trương Thị Thanh Nhàn, năm 2013 [65]; “Tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” của Vi Thị Hà, năm 2016