Phương Hướng Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Thực Hành Quyền Công Tố Ở Giai Đoạn Điều Tra Của Viện Kiếm Sát Nhân Dân

chế thực hiện cũng như hiệu quả của công tác giám định tư pháp (như giám định pháp y, dấu vết, giám định khoa học kỹ thuật, giám định tài chính, xây dựng...) còn nhiều hạn chế, bất cập, ảnh hưởng đáng kể đến công tác khởi tố, điều tra, truy tố.

Về mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong hoạt động điều tra, tuy pháp luật TTHS hiện hành đã quy định CQĐT phải thực hiện các quyết định, yêu cầu của VKS nhưng chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của CQĐT, do vậy, đây thực ra chỉ là sự ràng buộc về thủ tục pháp lý, còn nội dung tiến hành các hoạt động điều tra như thế nào, thu thập những chứng cứ gì chủ yếu do Điều tra viên dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT quyết định. Từ đó, có quan điểm cho rằng, quy định chế độ trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra như hiện nay làm cho VKS không có thực quyền, bởi trong khi CQĐT làm rất nhiều việc (từ tiếp nhận, xử lý tin báo về tội phạm, truy tìm thủ phạm đến thu thập chứng cứ, lập hồ sơ đề nghị truy tố) thì hoạt động công tố của VKS chỉ chủ yếu dựa vào hồ sơ của CQĐT. Đây cũng đồng thời là hạn chế pháp luật, dẫn đến VKS chưa tham gia được sâu và quá trình điều tra vụ án, không chỉ đạo được nội dung cần điều tra, làm giảm vai trò công tố trong hoạt động điều tra.

Điều kiện làm việc, phương tiện kỹ thuật, kinh phí nghiệp vụ rất hạn chế, nghèo nàn cũng đã làm giảm hiệu quả và tính kịp thời của hoạt động công tố trong các hoạt động điều tra, nhất là đối với hoạt động của Kiểm sát viên tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét và hỏi cung bị can.

* Nguyên nhân chủ quan

Một là, không ít cán bộ, Kiểm sát viên chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò, thẩm quyền của VKS trong hoạt động TTHS nói chung cũng như trong hoạt động thực hành quyền công tốgiai đoạn điều tra nói riêng, về trách nhiệm công tố, về mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát điều tra, giữa yêu cầu không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội với việc bảo đảm chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra. Từ đó xảy ra tình trạng không phát huy hết chức năng, quyền năng; còn thụ động chờ kết quả điều tra của CQĐT, lệ thuộc vào CQĐT; không thực hiện tốt các yêu cầu và kỹ năng của công tác kiểm

sát như: kiểm sát điều tra từ đầu, định kỳ phối hợp với Điều tra viên để tổng hợp, đánh giá chứng cứ, đề ra kế hoạch điều tra tiếp theo...

Mặt khác, trong hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, tinh thần trách nhiệm của một số Kiểm sát viên chưa thực sự được đề cao. Như đã phân tích ở trên, còn nhiều vụ án bị đình chỉ điều tra, bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có những vụ án bị trả lại hồ sơ điều tra bổ sung không phải do vụ án quá khó thu thập chứng cứ mà do Kiểm sát viên đã không thực hiện đúng và đầy đủ các nhiệm vụ theo Quy chế của ngành, hoặc là do ý thức trách nhiệm chưa cao. Một số Kiểm sát viên thiếu chủ động trong hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, còn nhiều hạn chế trong việc nghiên cứu để nắm chắc tiến độ vụ án cũng như các vấn đề cần chứng minh của vụ án. Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra vụ án không bám sát quá trình điều tra vụ án, nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không sâu, không khách quan, do đó không nắm được đầy đủ, tỷ mỉ các tình tiết, các chứng cứ, tài liệu buộc tội, gỡ tội đối với bị can. Do không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án nên không phát hiện được những chứng cứ còn thiếu, còn mâu thuẫn để yêu cầu điều tra kịp thời. Có một số Kiểm sát viên chỉ chú ý đến việc thu thập các chứng cứ buộc tội, gỡ tội mà quên quyền hạn và trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra VAHS của CQĐT. Những điều đó có thể dẫn đến những trường hợp vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng, gây khó khăn cho quá trình giải quyết án.

Hai là, quan hệ phối hợp trong giải quyết án trong nhiều trường hợp còn thiếu chặt chẽ, có trường hợp còn đùn đẩy trách nhiệm.

Từ khi có Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong TTHS và Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước đã nảy sinh tâm lý nặng về chống làm oan người vô tội, thiếu chủ động, kiên quyết phối hợp, yêu cầu CQĐT có biện pháp khắc phục việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội trong một bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên. Ngược lại, do nể nang, né tránh, ngại va chạm, có nơi lại bỏ qua sai lầm, vi phạm nghiêm trọng của CQĐT, dẫn đến tình trạng vi phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, làm oan người vô tội.

Ba là, năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận lãnh đạo, cán bộ, Kiểm sát viên chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Không ít Kiểm sát viên của VKS hai cấp tỉnh Yên Bái có trình độ pháp luật và nghiệp vụ kiểm sát còn yếu, qua thực tế hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra còn thể hiện nhiều hạn chế nhất định (như số liệu phân tích ở trên cho thấy số người bị bắt tạm giữ sau phải trả tự do xử lý hành chính, số vụ án, bị can bị đình chỉ điều tra, số vụ án phải trả lại để điều tra bổ sung do vi phạm tố tụng và thiếu chứng cứ còn để xảy ra). Một bộ phận nhỏ Kiểm sát viên chưa nắm vững được các quy định pháp luật hình sự và TTHS, còn lúng túng trong việc ADPL. Việc đánh giá chứng cứ còn phiến diện, chỉ quan tâm đến điều tra các chứng cứ buộc tội, không xem xét, đánh giá toàn diện, đầy đủ các tình tiết vụ án…, do đó không đánh giá đúng bản chất của vụ việc. Năng lực phân tích, tổng hợp các chứng cứ buộc tội, gỡ tội có trong hồ sơ còn yếu. Trong khi đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn chưa theo kịp với với sự phát triển về nội dung nhiệm vụ và số lượng án hình sự cũng như tổ chức, hoạt động của CQĐT. Đáng lưu ý, một bộ phận nhỏ cán bộ, Kiểm sát viên còn vi phạm đạo đức, tiêu cực, đã đề xuất các quyết định xử lý trái pháp luật.

Đối với tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung như đã nêu, một nguyên nhân không thể phủ nhận là do VKS còn buông lỏng trách nhiệm, không bám sát các hoạt động thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ án, xử lý vật chứng của CQĐT. Nhiều Kiểm sát viên chưa coi trọng các thủ tục tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật, chưa tự học hỏi, nghiên cứu đầy đủ, thấu đáo các quy định pháp luật cũng như quy chế nghiệp vụ của ngành, làm việc theo thói quen, kinh nghiệm. Ngoài ra, còn một số cán bộ, Kiểm sát viên thiếu bản lĩnh, giảm sút ý chí phấn đấu, sa sút về phẩm chất chính trị và đạo đức lối sống.

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái - 11

Bốn là, công tác quản lý chỉ đạo điều hành và kiểm tra của lãnh đạo VKSND tỉnh Yên Bái trong những năm gần đây mặc dù đã được quan tâm và chú trọng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Hệ thống VKS được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo của VKS cấp trên trực tiếp, VKS địa phương

chịu sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND Tối cao. Công tác chỉ đạo điều hành trong ngành chủ yếu dựa trên việc xem xét các báo cáo kết quả công tác của VKS cấp dưới. Việc kiểm tra hồ sơ, sổ sách chưa được tiến hành thường xuyên đối với các đơn vị, nhất là giữa VKSND Tối cao với các VKS địa phương. Còn có nơi lãnh đạo VKS cấp huyện tin tưởng, thoả mãn với báo cáo án của Kiểm sát viên, nên khi nghe báo cáo án không kỹ, không sâu, không tỷ mỉ dẫn đến sai sót trong nhiều trường hợp.

Mặt khác, cơ chế quản lý, điều hành việc giải quyết án hình sự luôn có sự biến động. Thời gian qua, chúng ta đã năm lần thay đổi việc quản lý thông khâu và chuyên khâu giữa “thực hành quyền công tố - kiểm sát điều tra với “thực hành quyền công tố - kiểm sát xét xử sơ thẩm”. Bên cạnh đó, việc bố trí, sắp xếp cán bộ, Kiểm sát viên có phần dàn đều, chưa chú trọng đến các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự. Trong việc phân công cán bộ làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án phức tạp, nghiêm trọng, có lúc, có nơi còn bố trí Kiểm sát viên kém năng lực, không đủ khả năng, thiếu những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết đảm nhiệm. Cùng với đó là số lượng Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án chưa hợp lý so với số lượng Điều tra viên được phân công điều tra, không quán xuyến được chất lượng và tiến độ điều tra.

Năm là, công tác giám sát của các cơ quan đại biểu dân cử, của các tổ chức xã hội và nhân dân đối với hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp chưa có cơ chế giám sát hiệu quả.

Quốc hội và Hội đồng nhân dân chủ yếu thực hiện quyền giám sát thông qua việc nghe báo cáo kết quả công tác theo định kỳ và giám sát thông qua chất vấn tại các phiên họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với lãnh đạo ngành Kiểm sát. Đây là hình thức giám sát cũng đem lại hiệu quả tích cực, song do Quốc hội và Hội đồng nhân dân phải thực hiện giám sát đối với tất cả các cơ quan Nhà nước nói chung, nên không đủ thời gian và điều kiện để thực hiện giám sát chuyên sâu đối với hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND.

Sáu là, công tác chủ động phối hợp liên ngành giữa các cơ quan tư pháp,

đặc biệt giữa các cơ quan VKS với CQĐT và Toà án trong việc giải quyết án hình

sự có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ, chất lượng chưa cao, hoặc coi trọng việc phối hợp mà quên mất nhiệm vụ và trách nhiệm của mình dẫn đến nể nang, né tránh, ngại va chạm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Đây cũng được xem như một nguyên nhân làm hạn chế chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKS.

Bảy là, điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành Kiểm sát cả nước nói chung còn thiếu và yếu, đối với một địa phương miền núi, kinh tế kém phát triển và xa xôi như Yên Bái, thì điều kiện cơ sở vật chất của VKSND tỉnh Yên Bái còn khó khăn hơn nhiều. Mặc dù những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tạo điều kiện cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật, thông tin liên lạc…, tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội trong giai đoạn hiện nay.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


Chương 2 của luận văn được trình bày trong 2 tiết gồm 33 trang. Qua việc phân tích đặc điểm, tình hình tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Yên Bái cũng như bằng những số liệu thống kê cụ thể trong 5 năm (2011 - 2015), tác giả đã làm rò những ảnh hưởng của nó đến chất lượng và thực trạng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái. Bằng các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh số liệu của VKSND tỉnh Yên Bái trong 5 năm, có thể thấy được những kết quả đạt được, bên cạnh đó cũng còn không ít những hạn chế, yếu kém cần phải được khắc phục. Những hạn chế yếu kém đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là do hệ thống pháp luật thực định còn nhiều bất cập, năng lực trình độ, phẩm chất đạo đức của cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế.

Thực trạng trên cho thấy cần phải có những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND nói chung và của VKSND tỉnh Yên Bái nói riêng để đáp ứng được cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN


Xuất phát từ những hạn chế về chất lượng của hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái và những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó, tác giả cho rằng để nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra cần phải có phương hướng và giải pháp đồng bộ có tính hệ thống, nhằm phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời, chính xác mọi hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội.

3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiếm sát nhân dân

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục tiến hành công cuộc cải cách bộ máy Nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, trong đó việc cải cách tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một đòi hỏi khách quan nảy sinh trong tiến trình đổi mới đất nước. Các Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, X, XI, Nghị quyết lần thứ III, lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa

X) đã xác định rò đường lối đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ:

Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra... [8].

Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra VAHS được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm của VKS. Nghị

quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị xác định cụ thể hơn các nhiệm vụ cấp bách và cơ bản của công cuộc cải cách tư pháp, trong đó chỉ rò:

Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ [5].

Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” chỉ rò phải “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra” [7]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh phải “Tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [10] nhằm nâng cao vị trí, vai trò của VKS trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân.

Do đó, các chủ thể ADPL nói chung và các chủ thể làm công tác ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái nói riêng cần quán triệt và nhận thức rò những định hướng lớn của Đảng về hoạt động cải cách tư pháp để nâng cao chất lượng ADPL trong điều kiện xây dựng nền tư pháp của Nhà nước pháp quyền XHCN. Để nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải nắm vững các phương hướng chung sau đây:

Thứ nhất: Bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy địa phương, hoàn thiện và phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử và của nhân dân đối với hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND. Sự lãnh đạo đó không có nghĩa là cấp ủy Đảng can thiệp vào các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc quyết định đường lối xử lý đối với các vụ án hình sự, mà sự lãnh đạo ở đây là việc đề ra các chủ trương, phương hướng nhằm đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nói riêng, nâng cao chất lượng ADPL, giải quyết các vụ án hình sự một cách nghiêm minh, đúng pháp luật.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí