Các Giải Pháp Cụ Thể Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Thực Hành Quyền Công Tố Ở Giai Đoạn Điều Tra Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân

Thứ hai: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự cũng như hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan, làm cơ sở cho việc ADPL trong thực hành quyền công tốgiai đoạn điều tra của VKSND được đồng bộ, thống nhất.

Thứ ba: Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp như: KSV, Kiểm tra viên, Điều tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên và đội ngũ Giám định viên, Luật sư, Người phiên dịch... có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có phẩm chất đạo đức, lập trường chính trị, công tâm. Đồng thời, tăng cường các biện pháp giáo dục chính trị tư tưởng, thanh tra, kiểm tra dưới nhiều hình thức nhằm làm trong sạch bộ máy các cơ quan tư pháp.

Đề cập đến nhiệm vụ cải cách tư pháp, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã yêu cầu các cơ quan tư pháp phải mẫu mực trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công khai trong hoạt động của mình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân; khắc phục tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân. Về cán bộ, Đảng ta chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất đạo đức, chính trị và có năng lực chuyên môn; lập kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ; xử lý nghiêm những cán bộ tham nhũng, tiêu cực.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX xác định nhiệm vụ: “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án” [4]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ: “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020... Đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.

Từ những chủ trương của Đảng cho thấy, phương hướng cơ bản để nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND chính là các vấn đề về tổ chức cán bộ. Do vậy, cần tập trung vào các mặt cơ bản sau:

- Xây dựng và phát triển đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND hai cấp tỉnh Yên Bái đủ về số lượng và bảo đảm về chất lượng;

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Kiểm sát viên cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, lập trường chính trị, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư: Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng, nhất là sau khi các VKS cấp huyện đã được tăng thẩm quyền và hệ thống VKSND đã được tổ chức thành 4 cấp theo Luật tổ chức VKSND năm 2014. Thực hiện việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ phải quán triệt tinh thần các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về vấn đề này, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

Thứ năm: Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng của tỉnh Yên Bái trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

Thứ sáu: Tiếp tục đề nghị Quốc hội đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ phụ cấp cho ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và VKSND tỉnh Yên Bái nói riêng, nhất là các đơn vị VKS cấp huyện; trang bị tài liệu, sách báo pháp luật, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào công tác nghiệp vụ để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ của ngành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Trên đây là những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND nói chung cũng như VKSND tỉnh Yên Bái nói riêng. Những phương hướng cơ bản này xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng được nêu trong các Nghị quyết, Chỉ thị, là nền tảng tư tưởng, là quan điểm chỉ đạo việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng.

3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái - 12

3.2.1. Nhóm các giải pháp về hoàn thiện pháp luật

* Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự

BLTTHS năm 2003 về cơ bản đã thể chế hoá được chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, qua hơn 10 năm thi hành đã khẳng định được vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

Mặc dù vậy, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập, chủ yếu là: (1) Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng có những nội dung chưa phù hợp nên ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán là những người trực tiếp giải quyết vụ án hình sự nhưng chỉ được giao những thẩm quyền hết sức hạn chế nên đã ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ giải quyết các vụ án hình sự; (2) Còn thiếu một số quyền quan trọng bảo đảm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội; (3) Quy định về căn cứ tạm giam còn định tính là nguyên nhân dẫn đến việc lạm dụng tạm giam trong thực tiễn; quy định về một số biện pháp cưỡng chế tố tụng còn chưa đầy đủ và cụ thể, thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; (4) Quy định về chứng cứ còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận là chứng cứ đối với các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng internet và các thiết bị điện tử; (5) Chế định thời hạn tố tụng chưa thật hợp lý, vẫn còn những hoạt động tố tụng chưa bị ràng buộc bởi thời hạn; thời hạn tạm giam còn dài; một số thời hạn quá chặt chẽ nên thiếu tính khả thi; (6) Mới chỉ quy định thủ tục áp dụng đối với người chưa

thành niên phạm tội mà chưa quy định thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng; thiếu các biện pháp bảo vệ người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; (7) Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm thiếu chặt chẽ đang là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kháng nghị giám đốc thẩm còn nhiều như hiện nay; (8) Mới dừng ở những quy định chung, chưa quy định rò về giá trị của các nguồn tư liệu có được thông qua hoạt động tương trợ tư pháp hình sự, thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để thực hiện các cam kết quốc tế, trong khi Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế và trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, đã đàm phán và ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù với các nước trên thế giới.

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI của Đảng. Các nghị quyết của Đảng yêu cầu cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi tranh tụng tại tòa là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, đồng thời yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể khác của tố tụng hình sự. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, bổ sung và làm rò hơn nhiệm vụ của Tòa án và VKS khi thực hiện chức năng Hiến định. Quốc hội cũng đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến TTHS nhằm thực hiện chủ trương cải cách tư pháp như: Luật tổ chức VKSND, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Luật sư, Luật trợ giúp pháp lý, Luật thi hành án hình sự... Những sửa đổi, bổ sung này đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong BLTTHS (sửa đổi).

Chính vì vậy, ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi, bổ sung). BLTTHS năm 2015 gồm 510 điều, được chia thành 9 phần, 36 chương, trong đó bổ sung mới 176 điều, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều. Bố cục của BLTTHS 2015 được thiết kế khoa học hơn, theo trình tự tố tụng từ khởi tố đến điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và gắn với các chủ thể tiến hành tố tụng ở mỗi giai đoạn. BLTTHS mới đã thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cụ thể hóa các trình tự, thủ tục tố tụng, xác định đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, hạn chế tối đa các quy định chung chung, phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành; tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn, đồng thời tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; đồng thời bảo đảm thống nhất với các luật mới được Quốc hội ban hành, nắm bắt các định hướng lớn trong các dự án luật liên quan đang được soạn thảo; nội luật hóa các điều ước quốc tế có liên quan đến TTHS mà Việt Nam là thành viên.

BLTTHS năm 2015 ra đời ngày càng hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc cơ bản, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự trong điều kiện của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, là công cụ pháp lý hữu hiệu để đấu tranh với các loại tội phạm, đặc biệt là trong trong bối cảnh chúng ta đang xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, bảo vệ công lý và phục vụ nhân dân.

* Hoàn thiện pháp luật hình sự

Bộ luật hình sự hiện hành được Quốc hội khóa X thông qua ngày 21/12/1999 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật hình sự Việt Nam, phát huy thành tựu của BLHS năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997). Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.

Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi to lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập, không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Mặc dù năm 2009, Quốc hội khoá XII đã sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, nhưng do phạm vi sửa đổi chỉ giới hạn trong một số điều nên chưa thể khắc phục được đầy đủ, toàn diện những bất cập của BLHS trong thực tiễn. Những bất cập, hạn chế của BLHS hiện hành được thể hiện ở một số điểm chủ yếu như sau:

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng định hướng XHCN của nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, BLHS hiện hành nhìn chung vẫn là sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển một cách lành mạnh. Một số quy định của BLHS tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, nhiều tội phạm mới phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế chưa được kịp thời bổ sung hoặc

tuy đã được bổ sung, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, nhất là các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại, tài chính, ngân hàng, thuế, bảo hiểm, chứng khoán, tội phạm trong lĩnh vực môi trường,…

Thứ hai, do ban hành từ năm 1999, nên BLHS chưa thể chế hoá được những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW, Nghị quyết số 48/NQ-TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW. Trong các nghị quyết này Đảng ta chỉ rò cần phải

Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế. Đồng thời, xử lý nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác.

Đây là những quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự mà BLHS cần phải được thể chế hóa một cách đầy đủ.

Đặc biệt, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện tốt hơn các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với vai trò là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Theo đó, một mặt, BLHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con

người, quyền cơ bản của công dân, mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng.

Thứ ba, BLHS hiện hành chưa cập nhật được đầy đủ, kịp thời các hành vi vi phạm có tính chất phổ biến, nguy hiểm cao cho xã hội để có biện pháp xử lý hình sự thích đáng. Điển hình có thể kể tới các hành vi lạm dụng lao động trẻ em; chiếm đoạt, mua bán trái phép mô tạng, các bộ phận cơ thể người; vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ; lợi dụng bán hàng đa cấp để chiếm đoạt tiền, tài sản; các vi phạm trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, môi trường, công nghệ cao. Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Thứ tư, BLHS hiện hành được ban hành từ năm 1999 trong bối cảnh nước ta chưa hội nhập sâu vào thế giới, nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa có điều kiện gia nhập. Ngày nay, xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, nước ta đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang phải đối mặt với sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các tội phạm do người nước ngoài thực hiện. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định về hình sự trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên và tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

Ngoài ra, BLHS hiện hành cũng còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp; các dấu hiệu định tội, định khung của nhiều tội danh; các tội ghép; cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh; chưa có sự nhất quán trong cách phân chia các chương tội phạm... Những bất cập này cũng ảnh hưởng lớn đến việc hướng dẫn thi hành và áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022