Quy Định Của Pháp Luật Hiện Hành Về Tranh Luận Của Kiểm Sát Viên Tại Phiên Tòa Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự

tranh luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rò sự thật khách quan của vụ án” [44].

Vị trí, chức năng của VKSND cũng được quy định rò hơn theo hướng phân định rò chức năng buộc tội của VKSND với chức năng xét xử của Tòa án, xác định rò công tố là chức năng cơ bản của VKSND. Để nâng cao tính chủ động của VKSND và hiệu quả của hoạt động công tố, pháp luật quy định rò chức năng của VKS là thực hành quyền công tố, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; thay vì thực hiện chức năng kiểm sát chung như trước đây, VKSND chỉ thực hiện chức năng giám sát hoạt động tư pháp.

Các quy định cụ thể trong pháp luật TTHS thể hiện tư tưởng tranh tụng đã dần thể hiện qua từng giai đoạn tố tụng cụ thể và được biểu hiện tập trung nhất trong thủ tục tranh luận tại phiên tòa. Đặc biệt là các quy định về trình tự phát biểu trong khi tranh luận và đối đáp khi tranh luận được quy định rò tại Điều 217, 218 Bộ luật TTHS 2003 và Điều 23, Điều 24 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, ban hành kèm theo quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của viện trưởng VKSND nhân dân tối cao. Các điều luật này quy định luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra lập luận của mình để đối đáp lại với từng ý kiến. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho các bên trình bày hết ý kiến.

Tiểu kết Chương 1

Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là một giai đoạn trong tiến trình xét xử tại một phiên tòa hình sự sơ thẩm. Trong đó, để được HĐXX đồng ý với quan điểm của mình, các bên tham gia tranh luận phải đưa ra những lý lẽ, những ý kiến, những dẫn chứng cụ thể để bảo vệ quan điểm của mình và phản bác lại quan điểm của bên đối lập, để từ đó thuyết phục được HĐXX chấp nhận quan điểm của mình. Trong giai đoạn tranh luận, Kiểm sát viên tham gia tranh luận là hoạt động có tính bắt buộc. Có thể hiểu tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là hoạt động của Kiểm sát viên giữ vai trò THQCT và KSXX tại phiên tòa ở giai đoạn tranh luận, được thực hiện bằng việc Kiểm sát viên đưa ra quan điểm, tài liệu, chứng cứ, đồng thời phân tích, lập luận để trả lời, đối đáp lại những câu hỏi, quan điểm về vụ án có tính chất đối lập với Kiểm sát viên từ phía bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự có mục đích, phạm vi và nội dung nhất định và được phân định so với tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự cũng như tranh luận của các chủ thể khác tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

Các quy định về tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự gắn liền với sử lịch sử lập pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là lịch sử xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TTHS gắn với các giai đoạn từ khi đất nước giành được độc lập năm 1945 tới trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực, giai đoạn từ Bộ luật TTHS năm 1988 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực và giai đoạn Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRANH LUẬN CỦA

KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM HÌNH SỰVÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.


2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai - 5

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Đảng ta đã xác định: “…bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”. [5]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng xác định: “…nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [6].

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, cùng với đó là sự nhận thức đầy đủ hơn về tranh tụng, năm 2013, nguyên tắc tranh tụng lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 – đạo luật Nhà nước cao nhất, cụ thể khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Trước khi có Hiến pháp 2013, tinh thần tranh tụng chỉ được thể hiện tại các Nghị quyết của Bộ chính trị, đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận trong văn bản pháp luật. Việc Hiến định nguyên tắc tranh tụng là tư duy mới của Nhà nước ta, đã góp phần thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử, là tiền đề để xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng.

Pháp luật TTHS hiện nay đã có những quy định cụ thể, rò ràng và đầy đủ hơn về tranh tụng và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự nói chung, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng. Như đã phân tích ở Chương 1 của luận văn, tác giả luận văn xác định hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự gắn với giai đoạn

tranh luận giữa các bên, được bắt đầu bằng lời luận tội hoặc phát biểu của Kiểm sát viên về quan điểm giải quyết vụ án và kết thúc trước thời điểm HĐXX vào phòng nghị án. Pháp luật TTHS hiện hành (Bộ luật TTHS năm 2015, các văn bản hướng dẫn thi hành và Quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm sát) quy định về hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự như sau:

2.1.1. Quy định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh luận

Địa vị pháp lý là “vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật; địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình...” [70, tr.244]. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác; đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật.

Như trong Chương 1 tác giả luận văn đã đề cập, có thể chia các chủ thể tham gia tranh luận thành ba nhóm: Một là, là các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, bao gồm: Kiểm sát viên, bị hại và người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi của bị hại; Hai là, là các chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội, bao gồm: Bị cáo, người bào chữa và người đại diện hợp pháp của bị cáo; Ba là, các chủ thể khác tham gia vào hoạt động tranh luận nhằm giúp Tòa án xác định sự thật khách quan, giải quyết đúng đắn các vấn đề của vụ án: Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người giám định…

Tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, Kiểm sát viên tham gia tranh luận với địa vị pháp lý của chủ thể thực hiện chức năng buộc tội. Kiểm sát viên là người được phân công THQCT và KSXX tại phiên tòa và bắt buộc phải tham gia vào việc tranh luận. Cụ thể:

Tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013 và khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức VKSND nhân dân 2014; Điều 20 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: VKSND có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung quy định tại Điều 266, Điều 267 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét

xử có liên quan đến hoạt động tranh tụng và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, đó là: “Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn: Công bố cáo trạng, công bố quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa. Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ; luận tội, tranh luận, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án” [45]. Đối với Kiểm sát viên, theo quy định tại Điều 42 Bộ luật TTHS năm 2015 thì khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật có quyền: Luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.

Quy định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh luận cũng đã được cụ thể hóa trong Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSND nhân dân tối cao. Cụ thể: Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, VKSND có trách nhiệm: Thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội, không làm oan người vô tội, pháp nhân thương mại vô tội [Khoản 1, Điều 1]. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn theo Điều 266 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 18 Luật Tổ chức VKSND nhân dân và các quy định pháp luật khác có liên quan [68, Khoản 1 Điều 2]. Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát viên bắt buộc phải tranh luận 68, [Khoản 1 Điều 26].

2.1.2. Quy định về trình bày luận tội của Kiểm sát viên

Luận tội là quan điểm của VKSND nhân dân về vụ án hình sự, kết luận về nội dung, tính chất của hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, vai trò của bị cáo trong vụ án có đồng phạm, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nguyên nhân điều kiện phạm tội, trên cơ sở trình bày, phân tích các căn cứ kết tội, gỡ tội để đề xuất hướng xử lý.

Khoản 1 Điều 320 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội…”. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý

kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng. Kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật [45, Điều 321].

Cụ thể hóa quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về việc trình bày luận tội, Khoản 3 Điều 25 Quy chế THQCT và KSXX Ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSND nhân dân tối cao quy định: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày bản luận tội và kết luận vụ án theo hướng sau: đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn; kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn với khoản mà VKSND đã truy tố trong cùng một điều luật; kết luận về một tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKSND đã truy tố nếu có căn cứ và các nội dung khác theo Mẫu của VKSND nhân dân tối cao. Luận tội của Kiểm sát viên chỉ căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa.” [68].

Để thực hiện việc trình bày luận tội, trước khi tham gia phiên tòa Kiểm sát viên phải chuẩn bị dự thảo bản luận tội theo mẫu của VKSND nhân dân tối cao và lưu hồ sơ kiểm sát. Đối với vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử lưu động, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo VKSND cho ý kiến về dự thảo bản luận tội. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải ghi chép đầy đủ việc kiểm tra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự và những người tham gia tố tụng khác để hoàn chỉnh dự thảo bản luận tội [68, Khoản 2 và 3 Điều 25].

Như vậy, các quy định của pháp luật TTHS hiện hành đã quy định trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc trình bày luận tội tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, quy định việc chuẩn bị dự thảo bản luận tội, hoàn thiện bản luận tội, nội dung bản luận tội… Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Kiểm sát viên thực hiện tốt hoạt động trình bày luận tội, mở đầu cho hoạt động tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.

Tuy vậy, Điều 321 Bộ luật TTHS năm 2015 có quy định một số yêu cầu đối với bản luận tội, trong đó đáng chú ý là yêu cầu trong bản luận tội phải “đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng”.

Tác giả luận văn cho rằng, quy định này chưa hợp lý. Bởi lẽ, luận tội được trình bày sau khi kết thúc việc xét hỏi, mở đầu cho một phiên tranh luận. Trong khi việc tranh luận chưa thực tế diễn ra, các bên chưa đưa ra ý kiến lập luận để làm sáng tỏ các tình tiết, chứng cứ còn mâu thuẫn, thì Kiểm sát viên đã đề xuất chi tiết về mức án, trách nhiệm dân sự. Điều này vô hình chung sẽ gây áp lực cho bị cáo và người bào chữa. Vì vậy, sẽ hợp lý hơn khi Kiểm sát viên chỉ đưa ra lập luận, kết luận về tội danh và khung hình phạt đối với bị cáo, còn mức án và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nên để cho HĐXX kết luận khi tuyên án; hoặc, sau khi các bên đã tranh luận xong, Kiểm sát viên đưa ra lời đề nghị cụ thể về hình phạt, trách nhiệm bồi thường thiệt hại và các vấn đề khác (nếu thấy cần thiết) trước khi HĐXX vào phòng nghị án.

2.1.2. Quy định về tranh luận với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác của Kiểm sát viên.

Đây là hoạt động thể hiện tập trung nhất, rò nhất của phần tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng, tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung. Việc tranh luận được diễn ra sau khi Kiểm sát viên trình bày xong luận tội. Cụ thể:

Sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội, “Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập

luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình.” [45, Khoản 1 Điều 322].

Và khi mà bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác nêu ra ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp với Kiểm sát viên thì Kiểm sát viên THQCT và KSXX tại phiên tòa bắt buộc phải tranh luận “Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát viên bắt buộc phải tranh luận” [68, Khoản 1 Điều 26]. Quá trình tranh luận, Kiểm sát viên là phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa [45, Khoản 2 Điều 232], [Khoản 1 Điều 26, Quy chế]. Trường hợp chủ tọa phiên tòa đề nghị Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác chưa được tranh luận thì Kiểm sát viên thực hiện theo đề nghị của chủ tọa phiên tòa, nếu đã tranh luận một phần thì Kiểm sát viên tranh luận bổ sung cho đầy đủ, không lặp lại những nội dung đã tranh luận trước đó [45, Khoản 2 Điều 232], [68, Khoản 2 Điều 26].

Để bảo đảm việc tranh luận được sát hợp, chính xác thì Kiểm sát viên phải “dự kiến những vấn đề cần tranh luận tại phiên tòa. Đề cương tranh luận được dự thảo theo Mẫu của VKSND nhân dân tối cao và lưu hồ sơ kiểm sát. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải ghi chép đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng để chuẩn bị tranh luận ” [68, Khoản 1 Điều 26]. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phải bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến đúng đắn và bác bỏ những ý kiến, đề nghị không có căn cứ pháp luật [68, Khoản 4 Điều 26].

Quá trình tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự không bị hạn chế về mặt thời gian, Chủ toạ phiên toà luôn tạo điều kiện cho

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 25/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí