áp dụng từ 1/1/2014 giảm thêm 3%: từ 25% xuống 22%, từ 1/1/2016 giảm tiếp từ 22% xuống 20%. Còn thuế suất áp dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa từ 1/1/2014 giảm từ 25% xuống 20%, từ 1/1/2016 giảm tiếp từ 20% xuống 17%.
Đặc biệt nguyên tắc minh bạch thể hiện rõ về các khoản chi được trừ
và không được trừ khi xác điṇ h nghia
vu ̣thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là
nội dung khó nhất và dễ tạo ra tính thiếu minh bạch nhất của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Để được xác định là khoản chi được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp thì các khoản chi phải đáp ứng đủ các điều kiện: Các khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật, đồng thời các khoản chi đó không thuộc các khoản chi phí không được trừ quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thực sự, việc áp dụng quy định này là không dễ dàng trong hạch toán đối với doanh nghiệp. Có những khoản chi phí phát sinh thực tế, có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp cho là liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhưng cơ quan quản lý lại cho là không liên quan. Bên cạnh đó, một số quy định khoản chi, ngoài thỏa mãn các nguyên tắc trên còn phải làm thủ tục đăng ký thông báo cho cơ quan thuế mới đủ điều kiện trừ. Ví dụ quy định: "Phần chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa vượt định mức tiêu hao do doanh nghiệp xây dựng, thông báo cho cơ quan thuế" sẽ không được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Thực tế cho thấy các quy định này không thiết thực trong quản lý mà lại tăng thêm chi phí cho xã hội: doanh nghiệp mất nhiều thời gian để thông báo cho cơ quan thuế về định mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu do bản thân doanh nghiệp tự xây dựng, cơ quan thuế hầu như không sử dụng số liệu này nhưng không thông báo sẽ không được chấp nhận là chi phí thực tế... Lần này dự Luật cho bỏ quy định về khoản chi không được trừ đối với chi
vượt định mức tiêu hao nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa. Quy định này đã nhận được sự đồng thuận cao của cộng đồng doanh nghiệp.
Bên cạnh đó chi về quảng cáo tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, tiếp tân, khánh tiết, hội nghị, chi hỗ trợ tiếp thị, hỗ trợ chi phí... cũng được rà soát lại cho phù hợp với thực tế và nâng tỷ lệ khống chế về chi phí quảng cáo, khuyến mại lên 15% đối với các loại hình doanh nghiệp không phân biệt doanh nghiệp mới thành lập tạo tính minh bạch hơn khi áp dụng
Ngoài ra một số khoản chi chi về tài trợ, chi đóng góp vào quỹ hưu trí tự nguyện hoặc quỹ mang tính an sinh xã hội cho người lao động của doanh nghiệp, quy định về "vốn mỏng" (chi phí trả lãi tiền vay) cũng được nghiên cứu sửa đổi bổ sung để nới rộng khoản chi phí thực tế phát sinh gần hơn với chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Việc giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và nới rộng một số khoản chi phí tính thuế, trước mắt sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân sách nhà nước. Nhưng tin tưởng rằng số tiền thuế cắt giảm sẽ được doanh nghiệp sử dụng hiệu quả, góp phần mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội và góp phần đóng góp nguồn thu cho ngân sách nhà nước ở các chu kỳ kinh doanh sau.
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Tắ C Đơn Giản, Dễ Hiểu, Dễ Tính Toá N
- Các Nguyên Tắc Xây Dựng Pháp Luật Thuế Trong Một Số Luật Thuế Ở Việt Nam Hiện Nay
- Nguyên Tắc Minh Bạch, Rõ Ràng, Cụ Thể Đươc
- Nguyên Tắc Hiệu Quả Và Thuận Tiện Được Thể Hiện Trong Luật Quản Lý Thuế
- Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Thuế Ở Việt Nam Để Đảm Bảo Các Nguyên Tắc Xây Dựng Pháp Luật Thuế
- Các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế - 11
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Qua những năm thực hiện, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành đã có những ưu điểm như có sự minh bạch, đơn giản, đồng bộ, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, góp phần bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng trong kinh doanh và phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu của Nhà nước…
Tuy nhiên, trước những biến động nhanh của thực tiễn nền kinh tế, một số quy định trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cần được điều chỉnh, nhất là về mức thuế suất; tỷ lệ khống chế chi phí quảng cáo, khuyến mại; miễn thuế và về các khoản chi phí được trừ và không được trừ; cũng như cần bổ sung quy định về khống chế tỷ lệ vốn vay so với vốn chủ sở hữu (vốn
mỏng) được tính vào chi phí; về điều kiện chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; về định mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu...
Nhìn chung, Luật đã bám sát mục tiêu tiếp tục tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh, phù hợp với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc tế; đặc biệt là giảm mức thuế suất chung và cải cách ưu đãi thuế để tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích doanh nghiệp tăng tích lũy, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước tăng trưởng nguồn thu ngân sách nhà nước trong trung và dài hạn; bảo đảm đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần thúc đẩy cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế...
Đồng thời, thực tế cũng cho thấy việc bổ sung quy định ưu đãi thuế đối với một số lĩnh vực là hoàn toàn thỏa đáng, như: doanh nghiệp thực hiện các dự án xây dựng nhà ở xã hội được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% đối với thu nhập từ hoạt động này, không quy định miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; bổ sung quy định ưu đãi thuế đối với hoạt động đầu tư mở rộng vào các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ưu đãi theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; Bổ sung thu nhập từ hoạt động xuất bản theo quy định của Luật xuất bản; thu nhập từ hoạt động báo in của cơ quan báo chí vào diện được áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10%; thu nhập của tổ chức tài chính vi mô vào diện áp dụng thuế suất 20%;... Bổ sung quy định cho phép doanh nghiệp sau khi bù trừ lãi lỗ giữa thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản (nếu có) với nhau mà vẫn còn lỗ thì số lỗ đó doanh nghiệp được bù trừ với thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ tính thuế.
Ngoài ra, cũng bổ sung quy định không tính vào chi phí được trừ đối với phần chi trả lãi vay của khoản vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá
bốn lần vốn chủ sở hữu (đối với một số lĩnh vực đặc thù như tín dụng, ngân hàng được áp dụng tỷ lệ cao hơn: không quá 10 lần vốn chủ sở hữu). Thực tế cho thấy, điều chỉnh này là cần thiết để kiểm soát sự an toàn tài chính vĩ mô và chống chuyển giá.
Tương tự, thực tế cũng cho thấy sự hợp lý của những điều chỉnh trong theo hướng mở rộng phạm vi tài trợ được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản tài trợ theo chương trình của Nhà nước đối với các địa phương thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; bổ sung quy định về khoản chi đóng góp vào Quỹ hưu trí tự nguyện hoặc quỹ mang tính an sinh xã hội cho người lao động của doanh nghiệp; bổ sung quy định điều kiện được tính vào chi phí được trừ phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt để khuyến khích việc thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần quản lý kiểm soát thu nhập của các tổ chức; bỏ quy định về định mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhiên liệu; quy định cụ thể một số khoản thu nhập không được ưu đãi thuế, theo đó các khoản thu nhập khác liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đang được hưởng ưu đãi thuế không được liệt kê sẽ thuộc diện được hưởng ưu đãi thuế,...
Cùng với đó, đảm bảo nguyên tắc minh bạch được gìn giữ và tôn trọng như là niềm tin cho thị trường, hệ thống chế tài xử lý các hành vi vi phạm cả về hành chính lẫn hình sự đều nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm nguyên tắc minh bạch của thị trường.
Bởi vậy, trong định hướng quản lý, các đơn vị liên quan luôn nỗ lực triển khai các bước cải cách, để đạt được một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu là nâng cao hơn nữa tính minh bạch, công bằng cho thị trường.
2.1.3. Nguyên tắc đơn giản , dễ hiểu , dễ tính toán đươc thể hiên
trong Luât
thuế giá tri g
ia tăng
Thuế giá tri ̣gia tăng là loại thuế thu vào phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Từ khái niêm
trên , có thể thấy nguyên tắc này việc đánh thuế phải
đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần. Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu hệ thống pháp luật thuế cần phải có sự tách biệt những phần của đối tượng tính thuế đã nằm trong diện chịu loại thuế đó ở giai đoạn trước. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật thuế giữa các quốc gia, nhất là trong thời kì hội nhập này, cũng cần tính tới khả năng các nhà đầu tư, công dân của quốc gia này nhưng có đối tượng tính thuế ở một quốc gia khác.
Nguyên tắc này thể hiện rất rõ trong tuế giá trị gia tăng ở các công tính tính thuế cụ thể. Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng tính trên hàng hóa, dịch vụ do người mua phải trả.
Để đảm bảo nguyên tắc đơn giản, dễ thực hiện, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng chuyển căn cứ xác định không chịu thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh từ thu nhập sang doanh thu. Qua tính toán, theo Nghị định số 103/2012/NĐ-CP ngày 4/12/2012 của Chính phủ về mức lương tối thiểu vùng năm 2013 thì mức lương tối thiểu vùng trung bình áp dụng cho doanh nghiệp là 2.000.000 đồng/tháng (từ 1.650.000 đồng/tháng tại vùng IV đến 2.350.000 đồng/tháng tại vùng I). Tỷ lệ thu nhập bình quân trên doanh thu của cá nhân kinh doanh hiện hành áp dụng cho các vùng, miền theo điều tra của Tổng cục Thống kê là khoảng 25-30% doanh thu, tương ứng
với mức doanh thu từ 80 triệu đến 96 triệu đồng/năm. Do vậy, viêc lấy mức
doanh thu 100 triệu đồng/năm cao hơn mức trần 96 triệu, không phân biệt theo ngành nghề hay địa bàn. Mức doanh thu này vừa bảo đảm đơn giản, thuận lợi cho hộ, cá nhân kinh doanh, vừa phù hợp với thực tế và đã tính đến yêu cầu ổn định trong 4-5 năm tới.
Theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020 (Điểm a Khoản 1 Mục III Điều 1 Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ) thì nội dung cải cách thuế giá trị gia tăng là:
Sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm bớt số lượng nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng; giảm bớt nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5%; bổ sung quy định để xác định đúng cơ chế thu đối với một số loại hàng hóa, dịch vụ mới phát sinh theo sự phát triển của kinh tế thị trường; nghiên cứu đến năm 2020 áp dụng cơ bản một mức thuế suất (không kể mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu) [4].
Việc áp dụng một mức thuế suất sẽ vừa đảm đảm thuận lợi trong quá trình thực hiện luâṭ thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, trong vài năm tới, bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và trên thế giới được dự báo sẽ còn nhiều khó khăn, do đó cần thiết tiếp tục duy trì nhóm thuế suất 5% đối với hàng hóa, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp và hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân bởi các lý do sau:
Thứ nhất, sản phẩm nông nghiệp vẫn áp dụng không chịu thuế giá trị gia tăng nên hàng hóa, dịch vụ là đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp cần tiếp tục duy trì ở mức thuế suất 5% trong một thời gian nữa để giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường;
Thứ hai, nước ta vẫn đang ở trong giai đoạn đầu hội nhập kinh tế quốc tế nên nếu áp dụng ngay một mức thuế suất 10% sẽ khiến nông nghiệp, nông thôn bị tác động mạnh, đặc biệt trong điều kiện hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở nước ta chưa cao, thu nhập và mức sống của người dân nhất là nông dân còn thấp;
Thứ ba, hiện nay mặt bằng giá thế giới một số vật tư nguyên liệu đầu vào của sản xuất tăng mạnh nhất là đầu vào của sản xuất nông nghiệp, từ đó ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm sản xuất trong nước, đời sống của người dân.
Để đơn giản thủ tục, tiết kiệm chi phí kê khai cho người nộp thuế, nâng cao hiệu quả quản lý, hạn chế hiện tượng gian lận hóa đơn để khấu trừ, hoàn thuế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng bổ
sung ngưỡng tính thuế để áp dụng phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã và cơ sở kinh doanh đăng ký tự nguyện. Ở nước ta số lượng doanh nghiệp có doanh thu 0,5 tỷ đồng/năm trở xuống chiếm 27,7% tổng số và đóng góp 0,1% tổng thu thuế giá trị gia tăng; số doanh nghiệp có doanh thu dưới 01 tỷ đồng/năm chiếm khoảng 30% và đóng góp 0,3% tổng thu thuế giá trị gia tăng. Vì vậy mức ngưỡng doanh thu đề xuất là 01 tỷ đồng/năm (tương đương khoảng 49 nghìn USD/năm).
Bên cạnh nội dung sửa đổi ngưỡng doanh thu nói trên, để bảo đảm minh bạch chính sách, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng bổ sung quy định cách xác định thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng, chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng tại Khoản 1 Điều 10 (lật hóa những nội dung đang quy định ổn định ở Nghị định).
Đối với các cơ sở kinh doanh dưới ngưỡng sẽ thực hiện nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng trình bày tại Điểm b dưới đây.
b) Về phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Điều 11. Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng
1. Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng bằng giá trị gia tăng nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng áp dụng đối với hoạt động mua bán, chế tác vàng bạc, đá quý.
Giá trị gia tăng của vàng, bạc, đá quý được xác định bằng giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý bán ra trừ giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý mua vào tương ứng.
2. Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu áp dụng như sau:
a) Đối tượng áp dụng:
- Doanh nghiệp, hợp tác xã có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng doanh thu một tỷ đồng, trừ trường hợp đăng ký tự
nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế quy định tại Khoản 2 Điều 10 của Luật này;
- Hộ, cá nhân kinh doanh;
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có doanh thu phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, trừ các tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển và khai thác dầu, khí nộp thuế theo phương pháp khấu trừ do bên Việt Nam khấu trừ nộp thay.
- Tổ chức kinh tế khác, trừ trường hợp đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 của Luật này.
b) Tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng được quy định như sau:
- Phân phối, cung cấp hàng hóa: 1%;
- Dịch vụ, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: 5%;
- Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: 3%;
- Hoạt động kinh doanh khác: 2% [24].
Điều 11 Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định cách tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp và đối tượng áp dụng phương pháp này.
Với việc bổ sung quy định về ngưỡng tính thuế giá trị gia tăng như nêu trên và để khắc phục những vướng mắc hiện nay về phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng sửa đổi Điều 11 như sau:
- Về cách tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp:
Khoản 1 Điều 11 quy định số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng