quyền… Gia đình thay thế là hình thức mới được quy định tại Điều 3 -Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 “là gia đình hoặc cá nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt”, và giữa các thành viên cũng hình thành nên mối quan hệ tương tự với gia đình thực tế.
Quan điểm của nhà nước là việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được thực hiện chủ yếu tại gia đình hoặc gia đình thay thế với cam kết có sự hỗ trợ cho cá nhân và gia đình nhận nuôi dưỡng các em. Chính sách hỗ trợ này dành cho những gia đình và cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi theo Quyết định số 38/2004/QĐ – TTg. Điều kiện thi hành là cá nhân và gia đình nhận nuôi dưỡng đảm bảo cho trẻ được đi học, chăm sóc, đối xử bình đẳng và phải thực hiện việc giám hộ cho trẻ theo quy định của pháp luật, nghiêm cấm việc ngược đãi, bắt trẻ em lao động quá sức. Nhận nuôi dưỡng trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi phải có được sự đồng ý của người giám hộ (nếu trẻ mồ côi dưới 9 tuổi), và được sự đồng ý của trẻ (đủ 9 tuổi trở lên). Họ được nhận khoản hỗ trợ ít nhất 240.000 đồng/tháng/trẻ em, với trường hợp trẻ dưới 18 tháng tuổi thì mức hỗ trợ là 300.000 đồng/tháng/trẻ em; nhận nuôi trẻ dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS được trợ cấp 360.000 đồng/tháng [5].
Dưới góc độ pháp lý, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được thể hiện một cách cụ thể nhất trong quy định về nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở của các mối quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng. Những người đang nuôi dưỡng trẻ theo quy định tại điều 47 và điều 48 Luật hôn nhân và gia đình bao gồm: ông bà nội, ông bà ngoại đang nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trong trường hợp không còn cha mẹ, anh chị em ruột; anh, chị ruột đang nuôi em trong trường hợp không còn cha mẹ [6]. Việc trợ giúp kinh phí được xem xét khi ông bà (nội ngoại), anh chị ruột (là đối tượng theo quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng không đủ khả năng
để nuôi dưỡng, nhằm giúp các gia đình giảm bớt phần khó khăn về tài chính trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đến khi các em đủ 15 tuổi.
Xét về mặt hình thức, trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi được đưa vào sống cùng với gia đình thay thế hoặc cơ sở trợ giúp. Các đối tượng khác trong nhóm cũng đã được pháp luật cụ thể hóa những việc cần làm để bảo vệ và chăm sóc cho sự phát triển của các em.
Trẻ em khuyết tật, tàn tật; và trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học do khiếm khuyết về hình thể hoặc trí tuệ sẽ được gia đình, nhà nước và xã hội giúp đỡ, chăm sóc, được tạo điều kiện để sớm phát hiện bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng. Các em cũng được nhận vào các lớp học hòa nhập tại các trường phổ thông trong hệ thống giáo dục dành cho trẻ bình thường. Các lớp học dành cho trẻ em khuyết tật, tàn tật cũng được tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của các em bởi với đối tượng trẻ có khiếm khuyết này, đòi hỏi cần có những phương pháp hoặc trang thiết bị riêng phù hợp với hoàn cảnh của các em (ví dụ: lớp học ngôn ngữ dấu, học văn hóa, học nghề..). Và các em được khuyến khích tham gia vào các hoạt động xã hội ở trường, ở cộng đồng. Những việc cần được thực hiện để giúp đỡ các em khuyết tật, tàn tật cụ thể là: nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dân, cán bộ, công viên chức các cấp các ngành về trẻ em khuyết tật, tàn tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học. Nhà nước thực hiện chính sách trợ cấp xã hội, trợ giúp y tế, giáo dục, kết hợp với vận động cộng đồng để hỗ trợ và chăm sóc thay thế cho các em. Hỗ trợ chỉnh hình và phục hồi chức năng, hỗ trợ học nghề, tạo việc làm cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại nơi cư trú, liên kết với các cơ quan, doanh nghiệp về việc làm cho trẻ.
Trẻ em nhiễm HIV/ AIDS cần phải được đảm bảo không bị phân biệt đối xử, kỳ thị ở cộng đồng. Pháp luật nghiên cấm những hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và gia đình họ. Các em cũng được nhà nước và xã hội tạo điều kiện để chữa bệnh, làm các xét nghiệm cần thiết. Với những trẻ nhiễm HIV/AIDS hình thức nuôi dưỡng có thể tại gia đình của em, nếu việc nuôi dưỡng tại gia đình gặp trở ngại thì các em sẽ được đưa vào sống tại các cơ sở trợ giúp trẻ em với trang thiết bị và người chăm sóc có chuyên môn hơn, như vậy, chất lượng chăm sóc sẽ tốt hơn cho tình trạng sức khỏe của các em. Gia đình và các thành viên trong gia đình có trẻ em nhiễm HIV/AIDS có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, động viên tinh thần các em, và phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cộng đồng trong phòng chống HIV/AIDS; đồng thời tạo điều kiện và giúp trẻ nhiễm HIV/AIDS tham gia các hoạt động tái hòa nhập với cộng đồng như tham gia các nhóm giáo dục đồng đẳng, câu lạc bộ những người nhiễm HIV/AIDS. Quyết định 313/2005/QĐ- TTg ngày 2/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ dành cho trẻ nhiễm HIV/AIDS như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Tắc Pháp Lý Về Chăm Sóc Và Bảo Vệ Trẻ Em Có Hoàn Cảnh Đặc Biệt Khó Khăn
- Quy Định Về Chăm Sóc Và Bảo Vệ Trẻ Em Có Hoàn Cảnh Khó Khăn
- Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn - Cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý về dân sự - 7
- Thực Tiễn Thi Hành Và Áp Dụng Pháp Luật Về Chăm Sóc Và Bảo Vệ Trẻ Em Có Hoàn Cảnh Đặc Biệt Khó Khăn Ở Việt Nam Hiện Nay
- Kinh Phí Dành Cho Trẻ Em Có Hoàn Cảnh Đặc Biệt Khó Khăn Giai Đoạn 2001 - 2005
- Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn - Cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý về dân sự - 11
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
- Trẻ em nhiễm HIV/AIDS đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước được hưởng trợ cấp thấp nhất bằng 210.000 đồng/tháng/trẻ em; và được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng với mức
130.000 đồng/người/năm (Quyết định số 96/2007/Q Đ-TTg ngày 28/6/2007).
- Trẻ em nhiễm HIV/AIDS sống tại cộng đồng, do xã, phường quản lý được hưởng mức trợ cấp thường xuyên thấp nhất là 65.000 đồng/ tháng/trẻ em.
- Trẻ em nhiễm HIV/AIDS bị bỏ rơi, không nơi nương tựa, không còn khả năng tự chăm sóc bản thân, thì được chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ
sở bảo trợ xã hội (tên khác là cơ sở trợ giúp). Tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác được thành lập cơ sở chăm sóc người nhiễm HIV. Phòng ngừa lây nhiễm là hoạt động bảo vệ các em và bảo vệ cộng đồng khỏi căn bệnh thế kỷ này.
Nếu trẻ em nhiễm HIV/AIDS dưới 6 tuổi thì được chăm sóc sức khỏe ban đầu và được cấp thuốc kháng HIV miễn phí. Nếu trẻ từ đủ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV/AIDS thì được ưu tiên đầu tiên trong việc cấp thuốc kháng HIV/AIDS do ngân sách nhà nước cấp; và được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thuốc kháng HIV thông qua tham gia các dự án, chương trình phù hợp. Thầy thuốc và nhân viên y tế có trách nhiệm điều trị cho trẻ, và phải giải thích cho các em hiểu về căn bệnh để các em tự giữ sức khỏe cho bản thân và phòng lây nhiễm cho người khác.
Trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại, trẻ em phải làm việc xa gia đình được tạo điều kiện cho học nghề, làm công việc phù hợp với sức khỏe, lứa tuổi; được chăm sóc sức khỏe học văn hóa, tu dưỡng đạo đức, đồng thời phải chấm dứt ngay công việc nguy hiểm, nặng nhọc và độc hại cho sức khỏe của trẻ. Các em sống xa gia đình, căn cứ vào tình trạng của các em sau khi khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm, sẽ được xem xét tạo điều kiện tiếp tục sống và làm công việc phù hợp với tuổi và sức khỏe, hoặc đưa về với gia đình, hoặc đưa vào cơ sở trợ giúp.
Trẻ em bị xâm hại tình dục không chỉ bị tổn thương về thể xác, còn bị những tổn thương về tâm lý, vì vậy, với đối tượng này cần được giúp đỡ bằng các biện pháp tư vấn tâm lý (tư vấn sức khỏe sinh sản, tư vấn pháp lý, tư vấn phòng ngừa lạm dụng tình dục cho các em phù hợp theo từng lứa tuổi); phục hồi sức khỏe cho những em là nạn nhân của nạn xâm hại tình dục dưới sự hướng dẫn của các tổ chức chuyên môn; tạo điều kiện cho các em có cuộc
sống ổn định. Gia đình và chính quyền địa phương tổ chức tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa trên phương tiện thông tin đại chúng, sinh hoạt cộng đồng…, phát hiện và tố giác kịp thời với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý.
Trẻ em nghiện ma túy: Gia đình có con nghiện ma túy cần phối hợp và tuân thủ các chỉ định của thầy thuốc trong khi cai nghiện (tự nguyện hoặc bắt buộc) cho trẻ. Khi phát hiện thấy có hành vi dụ dỗ, lừa dối, lôi kéo cần báo ngay cho chính quyền sở tại để đấu tranh với hành vi trái phép về ma túy… Việc chăm sóc, cai nghiện thực hiện tại nhà hoặc tại cơ sở cai nghiện chuyên môn. Trong quá trình cai nghiện, tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động lành mạnh. Nghiện ma túy rất dễ bị tái nghiện, do đó, việc bảo vệ các em khỏi nguồn thuốc là điều quan trọng.
Trẻ em vi phạm pháp luật: việc giáo dục trẻ vi phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện tại cộng đồng. Ngoài ra có thể giáo dục trẻ tại cơ sở trợ giúp đặc biệt (trường giáo dưỡng). Với trẻ phải chấp hành hình phạt theo pháp luật hình sự, hoặc bị xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, sau khi chấp hành xong, các em trở lại cộng đồng và sẽ được tạo điều kiện, giúp đỡ để tiếp tục học văn hóa, học nghề và hỗ trợ tìm việc làm.
- Quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm của trẻ em được quy định trong Điều 12 và Điều 69 ( Bộ luật hình sự 1999) đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý (trẻ từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi). Trên 16 tuổi thì trẻ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm do trẻ gây ra. Người chưa thành niên phạm tội chủ yếu, khi xử lý chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội. Tội hình sự của người chưa thành niên được áp dụng theo Luật mới, nghĩa là “không xử phạt tù chung
thân hoặc tử hình, đồng thời cũng không được áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội trong độ tuổi từ đủ 14 đến 16 tuổi.
- Trẻ từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo. Nếu từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi thì vi phạm hành chính của trẻ có thể được áp dụng hình thức xử phạt hành chính như Điều 12 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Khi các em vi phạm và gây thiệt hại thì Điều 606 và 621 Bộ luật Dân sự quy định cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ các trường hợp sau: trường hợp trẻ dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra; người mất năng lực hành vi dân sự (trẻ tàn tật, khuyết tật về trí lực) gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện hoặc tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện và tổ chức, người giám hộ đó phải bồi thường thiệt hại. Nhà trường, bệnh viện, tổ chức, người giám hộ nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì họ không phải bồi thường thiệt hại. Người đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì người giám hộ phải dùng tài sản của mình để bồi thường.
Từ đó cho thấy mong muốn đưa trẻ trở lại hòa nhập với cộng đồng, nhằm giúp trẻ được sống trong điều kiện phát triển về thể chất và tinh thần của nhà nước trên cơ sở đảm bảo quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng và quyền được sống chung với cha mẹ, với gia đình của các em. Không phải mọi trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đều được nuôi dưỡng trong các cơ sở trợ giúp, chỉ những em không được chăm sóc, nuôi dưỡng, không nơi nương tựa
tại gia đình hoặc gia đình thay thế mới vào sống tại cơ sở trợ giúp trẻ em. Những cơ sở này được thành lập để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Trình tự, thủ tục, hoạt động của cơ sở này tại chương IV (tr.211 – 214) nhằm thực hiện các nhiệm vụ: tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng; tư vấn và khám chữa bệnh, giáo dục hòa nhập, dạy nghề….
Tài chính cho hoạt động chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có từ hai nguồn: từ ngân sách nhà nước và từ đóng góp của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguồn tài chính trên được sử dụng hỗ trợ cho các họat động quản lý và trợ giúp cho trực tiếp cho trẻ dưới hai hình thức: hỗ trợ thường xuyên và hỗ trợ đột xuất.
Đối với hỗ trợ thường xuyên thì theo Nghị định 67/2007/NĐ – CP, nguồn kinh phí trợ giúp thường xuyên tại cộng đồng, kinh phí nuôi dưỡng, kinh phí quản lý, đầu tư xây dựng cơ bản của các cơ sở bảo trợ (còn có thể gọi tên khác là cơ sở trợ giúp như trong giải thích của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004) hoặc nhà xã hội tại cộng đồng thuộc cấp nào thì do ngân sách cấp đó đảm bảo theo phân cấp hiện hành của Luật Ngân sách Nhà nước. Quy định này đã nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời phải nắm được tình hình biến động về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở địa phương mình.
Đối với hỗ trợ đột xuất, Nghị định 67 cũng giành quyền chủ động cân đối ngân sách cho chính quyền địa phương. Trợ giúp từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có thể hỗ trợ trực tiếp cho địa phương hoặc thông qua Chính phủ hoặc các đoàn thể xã hội. Trong trường hợp nguồn kinh phí trên không đủ để thực hiện cứu trợ đột xuất thì Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ phải báo cáo lên Bộ Lao động-Thương binh- Xã hội
và Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ thêm từ Ngân sách Nhà nước ở trung ương.
Đa dạng hóa hình thức hỗ trợ như trên giúp tối đa hóa các nguồn lực nhằm cải thiện chất lượng của chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hướng tới đạt được những mục đích mà Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 mong đợi.
Chủ thể thực hiện chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Nhà nước ban hành pháp luật, và để thực thi những quy định đó trong xã hội, cần có những người thực hiện việc theo dõi, giám sát, và xử lý khi có vi phạm xảy ra. Các quy định về chăm sóc và bảo vệ trẻ em cũng được thực thi qua những người (hiểu theo nghĩa rộng) nhằm bảo đảm những quyền của các em được thực hiện trong cuộc sống. Tuyên bố Thiên niên kỷ năm 2000 nhấn mạnh trách nhiệm của cộng đồng thế giới đối với việc thực hiện quyền trẻ em rằng: “…là người lãnh đạo, chúng ta có trách nhiệm và nhiệm vụ đối với dân chúng toàn thế giới, đặc biệt đối với những người dễ bị tổn thương nhất, nhất là trẻ em mà tương lai chính sẽ thuộc vào các em”[25]. Triển khai thực hiện các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, cũng như các quy định của luật pháp quốc gia trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã đặt trách nhiệm lên vai tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức bởi đối tượng mà pháp luật điều chỉnh là người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, và dễ bị tổn thương trong xã hội.
Pháp luật luôn luôn đề cao và khẳng định vai trò của gia đình trong công tác chăm sóc sức khỏe và bảo vệ trẻ em, vì các em là thành viên của gia đình đó, giữa các thành viên của gia đình có mối liên hệ mật thiết về mọi mặt. Gia đình có trách nhiệm đầu tiên trong việc nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ ngay từ