Thực Trạng Các Quy Định Pháp Luật Về Bảo Vệ Nạn Nhân Của Tội Phạm Là Trẻ Em Ở Việt Nam

 Nước Pháp: Hệ thống của Pháp dựa trên một mạng lưới rộng khắp các tổ chức chuyên hỗ trợ trẻ em là nạn nhân của tội phạm. Từ năm 2000, Thanh tra viên của Trẻ em khuyến khích và đảm bảo việc bảo vệ trẻ vị thành niên.Năm 2004, cơ quan truyền thông quốc gia về trẻ em gặp nguy hiểm đã được thành lập và nhằm mục đích ngăn ngừa và xác định các trường hợp bỏ rơi và lạm dụng trẻ em.Các hoạt động đã được thực hiện, chẳng hạn như xuất bản các hướng dẫn thực hành tốt. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục đã công bốmột hướng dẫn chính thức được chia sẻ có chứa các thực hành tốt để áp dụng với sự có mặt của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Hướng dẫn đưa ra lời khuyên về cách hành động để cải thiện việc khắc phục và vạch ra các giai đoạn can thiệp khác nhau nếu trẻ là nạn nhân của tội phạm.

Qua hệ thống bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em của Pháp ta có thể thấy một ưu điểm ở đây là quốc gia này đã đề cao sự tiếp nhận thông tin các hành vi vi phạm đối với trẻ em trên cả nước bằng hệ thống các tổ chức chuyên trách hỗ trợ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Thông qua hệ thống các tổ chức này khi trẻ em bị xâm hại sẽ ngay lập tức có chủ thể này đứng ra bảo vệ một cách kịp thời và nhanh chóng, tránh tình trạng “ cha chúng không ai khóc”, ỷ lại giữa các cơ quan. Hệ thống các tổ chức này được thành lập một cách rộng rãi khắp quốc gia thì việc nhận tin báo về nạn nhân của tội phạm sẽ nhanh chóng hơn từ đó nạn nhân của tội phạm được bảo vệ kịp thời tránh được các hậu quả xấu có thể xảy ra. Khi phát hiện hoặc nhận được tin báo về hành vi xâm hại là trẻ em tổ chức chuyên hỗ trọ trẻ em là nạn nhân của tội phạm sẽ phản ứng nhanh chóng, đưa ra các biện pháp kịp thời để bảo vệ nạn nhân ngay tại chỗ và báo với cơ quan nhà nhà nước có thẩm quyền để khởi tố, điều tra và xét xử.

Bên cạnh việc thành lập hệ thống tiếp nhận thông tin về tội phạm trẻ em quốc gì này còn đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em bằng kênh truyền thông riêng về vấn đề bảo vệ trẻ em bị bạo hành. Thông qua kênh truyền thông này nhà nước có thể tuyên truyền giáo dục nhân dân nhận thức đúng đắn về pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em và tầm quan trọng của việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội.

 Nước Đức:

Đức đã ban hành Luật trợ giúp cho nạn nhân của hành vi bạo lực, Luật bảo vệ nhân chứng , thành lập một hệ thống thực hiện các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm và hệ thống các tổ chức trợ giúp pháp lý một cách rất hiệu quả.

Nước Đức đã ban hành Luật trợ giúp nạn nhân của hành vi bạo lực riêng biệt, tách ra khỏi luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý riêng biệt cho việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm bị bạo lực. Trên thực tế như chúng ta đã biết trẻ em bị bạo lực rất nhiều, các em bị đánh đập tại trường học, tại gia đình và tại nơi lao động. Căn cứ vào các quy định tại luật này, cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ bảo vệ, trợ giúp nạn nhân cảu hành vi bạo lực sẽ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao tránh tình trạng ỷ lại vào cơ quan nhà nước khác.

Ngoài ra nhà làm luật ở Đức đã ban hành Luật bảo vệ nhân chứng. Trong nhiều trường hợp trên thực tế người dân trực tiếp chứng kiến những hành vi phạm tội đối với trẻ em nhưng do tâm lí sợ bị trả thủ họ không dám đứng lên để làm nhân chứng tại tòa hay không dám thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhất là trong những vụ án mà chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em là người có chức có quyền hoặc du côn, côn đồ.

Thông qua pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm tại Đức ta thấy được tầm quan trọng của việc ban hành Luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm và đồng thời quan tâm đến việc bảo vệ nhân chứng, người báo tin giúp hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em được bảo đảm hơn.Thông qua các quy định trong văn bản pháp luật để áp dụng vào các hoạt động thực. Và cũng dựa vào quy định của văn bản này để xem xét xử lý những hành vi vi phạm trong hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là tre rem một cách cụ thể tránh tình trạng quy định chung chung và xử lý không thỏa đáng.

Bên cạnh đó quốc gia này đã xây dựng một hệ thống các tổ chức bảo vệ nạn nhân của tội phạm và các tổ chức trợ giúp pháp lí cho nạn nhân của tội phạm một cách rộng rãi đáp ứng được tối ưu nhu cầu bảo vệ nhanh chóng của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Mạng lưới Opferfobel cung cấp những trọ giúp pháp lí hữu hiệu cho nạn nhân của tội phạm,

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM LÀ TRẺ EM Ở VIỆT NAM

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.

Các văn bản quy định về bảo vê nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần phải vừa đảm bảo các nguyên tắc bảo vệ nạn nhân của tội phạm theo các văn bản quốc tế mà trước hết là Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về những nguyên tắc cơ bản trong tư pháp đối với các nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng bạo lực. Tiếp theo là bảo đảm quyền lợi của trẻ em theo quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (20-11-1989). Đó là những văn bản pháp lí quan trọng xác định những nguyên tắc cơ bản để các quốc gia cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật nước mình. Việt Nam đã có một số văn bản quy định về vấn đề liên quán đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em như:

Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý - 6

 Bộ luật hình sự 2015

 Luật tố tụng hình sự 2015

 Hành chính

 Hôn nhân gia đình 2014

 Luật nuôi con nuôi 2010

 Luật trẻ em 2016

 Bộ luật lao động 2012

 Nghị định 56/2017/NĐ-CP hướng dẫn Luật trẻ em

 Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi

 Luật hiến pháp 2013

 Nghị định 144/2013/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em

 Luật trợ giúp pháp lý 2006

 Luật chống bạo lực gia đình 2007

 ……

Như chúng ta có thể thấy Việt Nam có rất nhiều văn bản quy định về quyền trẻ em và bảo vệ quyền của trẻ em, tuy nhiên các văn bản chỉ dừng lại ở một số quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhưng chưa đưa ra được cơ chế

thực hiện hiệu quả việc bảo vệ đó.Để làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế hữu hiệu bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em cần phải có văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, cụ thể và toàn diện các vấn đề liên quan đến hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Việt Nam vẫn chưa có Luật bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tội phạm để làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế hữu hiệu để bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em.

2.2. Nội dung bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong pháp luật Việt Nam

Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, vào ngày 20/2/1990. Trong nhiều năm qua, Việt Nam không ngừng mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế với xu hướng hội nhập, đa dạng, đa phương, chia sẻ và phát triển.

Trẻ em là một công dân, và Điều 71 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm…Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.” Từ đó, có thể thấy, bất cứ hành vi đánh đập, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm tới tính mạng mang tính bạo lực gia đình của các thành viên gia đình nói chung và cha mẹ nói riêng đối với trẻ em đều là vi phạm pháp luật. Đây cũng là một nội dung được thể hiện rõ trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “…Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” (khoản 4, Điều 69).

Luật trẻ em 2016 quy định trẻ em có Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển: Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em; Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi

hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy; Trẻ em có quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật; không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác. Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ trách khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên hoặc đe dọa thực tế gây nên hậu quả đáng kể nhất định.

Trong cấu thành của tội phạm xâm hại tình dục thì khách thể bị xâm hại ở đây là con người , mà cụ thể là trẻ em. Đặc biệt, để thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe và trừng trị đối với những hành vi bạo lực gia đình có hậu quả nghiêm trọng, Bộ luật hình sự 2015 đã đưa ra rất nhiều các quy định cụ thể. Ví dụ, với Tội hành hạ người khác (Điều 140), nếu như hành vi đối xử tàn ác, hành hạ người khác lệ thuộc mình song lại là trẻ em thì đây là tình tiết tăng nặng và sẽ chuyển khung hình phạt từ 3 tháng tù giam đến 2 năm lên thành 1 năm đến 3 năm. hay như Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 141), nếu xét thấy có tính chất loạn luân hay làm cho nạn nhân có thai thì đây là tình tiết tăng nặng và chuyển khung hình phạt từ khung 1 lên khung 2 với thời gian là 12 năm đến 20 năm tù.

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi bị phạt tù từ 7 – 15 năm và khi xét thấy có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như hiếp dâm người dưới 10 tuổi, dây rồi loạn tâm thần và hành vi vủa nạn nhân từ 46% trở lên sẽ bị phạt tù từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình. ( điều 142)

Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi( điều 144), người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi có các tình tiết tăng nặng nhưNhiều người cưỡng dâm một người; Gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

Đấy là một vài ví dụ điều luật quy định trong bộ luật Hình sự 2015 về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Ngoài ra trong bộ luật này cũng quy định thêm các tình tiết tăng nặng đối với của thể thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em.

Theo quy định của pháp luật, trẻ em cũng là chủ thể được hưởng tài sản từ người thân thông qua thừa kế hoặc tặng cho. Tài sản và các lợi ích kinh tế của trẻ em là cơ sở, nền tảng để họ chống lại bạo lực gia đình. Khi không phụ thuộc vào kinh tế hay ít nhất có sự bảm đảo về kinh tế nhất định và không quá lệ thuộc thì trẻ em còn có thể đứng lên chống lại bạo lực gia đình. Quyền sở hữu tài sản được Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ghi rõ: “Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật” (Điều 19). Cha mẹ, người giám hộ hay các cơ quan tổ chức hữu quan có trách nhiệm phải giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em cũng như phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em một cách tốt nhất, pháp luật nước ta còn đưa ra các văn bản quy định các biện pháp xử lý đối với những hành vi bạo lực gia đình nói chung ấy trên cở sở ban hành các văn bản như Luật Phòng chống bạo lực gia đình 207, Nghị định của Chính phủ số 110 NĐ – CP ngày 10/12/2009 về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình và một số các văn bản khác.

Luật tố tụng hình sự theo điều 1, 2 của Bộ luật tố tụng hình sự ( BLTTHS) 2015 định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. BLTTHS có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Ngoài tại điều 25 của bộ luật này quy định về việc xét xử kịp thời, công minh, công bằng. Trong điều luật này quy định “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai.” Đây là quy định thể hiện sự giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tránh tình trạng lạm quyền của cơ quan ( cá nhân) có thẩm quyền, ngoài ra có quy định các trường hợp được xét xử kín đối với người dưới 18 tuổi để giữ bí mật đời tư. Đây là một hình thức bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, nhất là các bé nữ bị xâm hại tình dục.

Các quy định này cũng đã góp phần vào việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em một cách hiệu quả . Đây là văn bản pháp lý thiệt thực nhất quy định về chủ thể thực hiện, nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể thực hiện các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm. Trong bộ luật này đã quy định các hoạt động phải làm sau khi nhận tin báo về tội phạm của chủ thể có nhiệm vụ được giao. Từ đó ngay sau khi nhận được tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước về hành vi phạm tội với trẻ em thì cơ quan tiếp nhận tin báo này căn cứ vào đó để khởi tố vụ án hình sự và trong bộ luật cũng quy định về trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đồng thời bộ luật này đã quy định thời hạn, thủ tục giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Theo điều 147 của bộ luật này thì “Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;”. Theo đó khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm thì cơ

quan nhà nước có thẩm quyền phải có các hoạt động xem xét hành vi vi phạm, mức độ đã đủ để cấu thành tội phạm hay chưa và trong vòng 20 ngày phải có ra quyết định Khởi tố vụ án hay không. Đây là một quy tắc để nhằm tăng cường, thúc đẩy sự tự giác của cơ quan có thẩm quyền, nếu không có quy định như vậy thì sau khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm họ sẽ không chủ động giải quyết vì để lâu cũng không sao và điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Để bảo đảm an toàn cho bị hại, BLTTHS 2015 quy định thêm quyền rất thiết thực cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ khi họ báo cáo về nguy cơ họ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những hành vi đe dọa họ nhằm gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ. Như vậy các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm thực hiện những biện pháp hợp lý để giải quyết những mối lo ngại về an ninh cho các bị hại, xác định tính chất và phạm vi của các biện pháp, đánh giá mức độ nguy hiểm và đưa ra những lựa chọn hợp lý để giải quyết các mối đe dọa với nguồn lực sẵn có để đáp ứng quyền được bảo vệ của bị hại. Liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em, pháp luật đặt ra quy định với chủ thể bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong Luật công an nhân dân. Theo điều 15 của Luật công an nhân dân quy định nhiệm vụ của cơ quan công an là “Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” Cơ quan công an phải có nhiệm vụ chủ động bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân. Bảo vệ Tổ Quốc và nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhất của khối Công An nhân dân, khi một người dân bị xâm hại hoặc đe dọa bị xâm hại về quyền và lợi ích hợp pháp thì cơ quan này đại diện

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 29/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí