Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2


thương mại cổ phần và ngân hàng có sở hữu nước ngoài. Nhìn chung quy mô mẫu như vậy là đủ để đại diện cho tổng thể hệ thống các NHTM trong nước gồm 31 ngân hàng như hiện nay. Số lượng ngân hàng trong mẫu chiếm trên 80% của tổng thể, và nếu tăng quy mô mẫu lên thì có thể gặp trở ngại về sự sẵn có của số liệu do một số ngân hàng công bố thông tin không đầy đủ hoặc đã được sáp nhập với các ngân hàng khác trong quá trình tái cơ cấu.

Phạm vi nghiên cứu về thời gian: tập trung trong giai đoạn 2011 – 2016, bên cạnh đó một số nội dung phân tích của NCS trong luận án có sử dụng số liệu về hoạt động ngân hàng trong những năm trước đó.

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu

4.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng. Với mục tiêu chính đã trình bày của nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu được vận dụng một cách phù hợp với các nội dung nghiên cứu. Cụ thể như sau:

- Phương pháp hệ thống, tổng hợp lý thuyết: Luận án khai thác các tài liệu theo các chủ đề về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữuhiệu quả hoạt động của NHTM, trên cơ sở phân tích theo chủ đề, sắp xếp các thông tin thu thập được để phát hiện ra những quan điểm nghiên cứu của các tác giả khác nhau, từ đó hình thành nên một hệ thống lý thuyết cần thiết cho mục tiêu và đối tượng nghiên cứu.

- Phương pháp khảo sát, phỏng vấn chuyên gia: Nghiên cứu sinh thiết kế bộ câu hỏi để đánh giá chất lượng quản trị công ty của các ngân hàng Việt Nam liên quan đến cấu trúc sở hữu thông qua việc tính toán chỉ số CGI. Để trả lời bộ câu hỏi này NCS kết hợp giữa việc khai thác tài liệu từ các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên và báo cáo quản trị công ty của các ngân hàng và việc phỏng vấn cán bộ quản lý tại các ngân hàng đó. Đồng thời, quá trình phỏng vấn chuyên gia cũng giúp hình thành những ý tưởng khuyến nghị trong chương thứ 5 của luận án.

- Phương pháp thống kê, phân tích, tồng hợp: Sau khi có kết quả dữ liệu sơ cấp và thứ cấp thu thập được về các chỉ tiêu cấu trúc sở hữu, kết quả hoạt động, chất lượng quản trị công ty, các dữ liệu được đưa vào các bảng tính Excel để thống kê và đưa ra số liệu tổng hợp, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh ngang giữa các ngân hàng và so sánh dọc theo thời gian để đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

- Phương pháp hồi quy kinh tế lượng theo mô hình dữ liệu bảng: Ngoài các phương pháp kể trên, luận án sử dụng mô hình kinh tế lượng GMM, mô hình tác động cố định FEM, mô hình tác động ngẫu nhiên REM cho dữ liệu bảng trên phần mềm STATA để kiểm chứng ảnh hưởng của sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài, quản trị công ty theo loại hinh sở hữu tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam được đo lường thông qua các chỉ tiêu sinh lời và rủi ro.

4.2. Nguồn số liệu

Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2

Trong luận án, dữ liệu được khai thác trên cơ sở cả nguồn dữ liệu sơ cấp và thứ cấp có uy tín và có thể đối chiếu.

Đối với dữ liệu sơ cấp được sử dụng để tính điểm quản trị công ty CGI cho các ngân hàng. Cơ sở để tính điểm là bảng hỏi 35 câu được thiết kế như phiếu khảo sát, và NCS sẽ tìm câu trả lời cho những câu hỏi này để tính điểm dựa trên những thông tin thu thập được về tình hình quản trị công ty của ngân hàng thông qua (i) phỏng vấn trực tiếp với cán bộ ngân hàng; (ii) tổng hợp thông tin từ các báo cáo của ngân hàng.

Dữ liệu thứ cấp sẽ được thu thập từ nguồn cung cấp số liệu Bankscope cũng như một số cơ sở dữ liệu của Tổng cục thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Thế giới... Bankscope là một nguồn cơ sở dữ liệu có uy tín trên thế giới, lưu trữ dữ liệu của hơn 10000 TCTD trên toàn cầu. Những dữ liệu ngân hàng thu thập được từ nguồn Bankscope bao gồm báo cáo kết quả kinh doanh, các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán và các chỉ số tài chính. Tuy nhiên, một số thông tin đặc biệt là các thông tin về tỷ lệ sở hữu, quản trị công ty của các NHTM Việt Nam không được tổng hợp đủ trên Bankscope, vì vậy nghiên cứu sinh tìm kiếm những thông tin này dựa trên các Báo cáo thường niên và Báo cáo tài chính đã kiểm toán của các ngân hàng. Nguồn dữ liệu này sẽ bổ sung cho những thông tin còn thiếu từ nguồn Bankscope.

5. Những đóng góp mới của luận án

Về mặt lý luận, luận án đã khái quát một cách hệ thống các vấn đề liên quan đến mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các NHTM. Đặc biệt, luận án đã đưa ra được cơ chế tác động từ cấu trúc sở hữu tới vấn đề quản trị của các ngân hàng, từ đó tác động tới hiệu quả hoạt động của NHTM. Đây là một khía cạnh phát triển mới quan trọng khi so sánh với các nghiên cứu khác cùng chủ đề.

Về mặt thực tiễn, luận án đã làm rõ một số nội dung chính sau:

Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm cơ cấu sở hữu của các NHTM Việt


Nam hiện nay về sở hữu Nhà nước, sở hữu nước ngoài, hiện tượng sở hữu chéo, và so sánh ảnh hưởng của những hình thức sở hữu này với hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam, luân án đã nghiên cứu nhằm kiểm chứng các giả thuyết về mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của NHTM tại Việt Nam, bao gồm:

- Ảnh hưởng của sở hữu Nhà nước ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng tại Việt Nam.

- Sở hữu nước ngoài có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng tại Việt Nam

- Sở hữu tập trung có ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

- Cấu trúc sở hữu trong mối liên quan đến chất lượng quản trị công ty ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Thứ hai, luân án đã đưa ra được những đánh giá về xu hướng thay đổi trong cấu trúc sở hữu tại các NHTM

Thứ ba, kết hợp kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn trên với những chính sách đã được ban hành về sở hữu và quản lý Nhà nước trong hệ thống NHTM Việt Nam cũng như định hướng chính sách trong thời gian tới, luân án đã đề xuất một số khuyến nghị về quản lý sở hữu trong hệ thống NHTM tại Việt Nam, bao gồm: (i) giám sát và minh bạch hóa vấn đề sở hữu; (ii) quản lý mức sở hữu hợp lý trong NHTM; và (iii) Cải thiện chất lượng quản trị công ty trong ngân hàng.

6. Kết cầu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 5 chương:

Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại

Chương 2: Cơ sở lý luận về tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại

Chương 3: Thực trạng tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Chương 4: Mô hình kiểm đinh tác động của cấu trúc sở hữu tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Chương 5: Các khuyến nghị về cấu trúc sở hữu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC SỞ HỮU ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI‌


1.1. CÁC NGHIÊN CỨU VỂ CẤU TRÚC SỞ HỮU TÁC ĐỘNG TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG

Cấu trúc sở hữu trong mối quan hệ với hiệu quả hoạt động của ngân hàng từ lâu đã nhận được sự quan tâm từ phía các cơ quan quản lý cũng như các nhà nghiên cứu. Xét về mặt lịch sử, vấn đề này lần đầu tiên được đề cập trong cuốn sách “Công ty hiện đại và Tài sản cá nhân” của Adolph Berle và Gardiner Means [43] vào năm 1932. Theo lập luận của Berle và Means, sự phân tán trong sở hữu cổ phần tỷ lệ nghịch với hiệu quả hoạt động của công ty. Sự mở rộng quyền sở hữu này có thể cho phép các nhà quản lý theo đuổi lợi ích riêng của họ và không phù hợp với lợi ích các cổ đông, do vậy, việc vận hành công ty bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt quyền sở hữu và cấu trúc kiểm soát. Từ đó, rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề này đã được xây dựng trên cơ sở các quan sát đa dạng về những loại hình công ty, khu vực địa lý cũng như loại hình sở hữu khác nhau.

Trong nghiên cứu về các ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu, Demsetz (1983)[57] cho rằng cấu trúc sở hữu cần được xem xét là một biến nội sinh và nó phản ánh các tác động của thị trường tài chính đối với cổ phiếu của doanh nghiệp. Khi chủ sở hữu của các công ty cổ phần quyết định bán các cổ phiếu đang nắm giữ hay các cổ đông mua thêm cổ phiếu phát hành thêm của các công ty đại chúng, thực tế là họ đang làm thay đổi cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp (quyền sở hữu của doanh nghiệp được phân tán hay lan tỏa giữa các chủ sở hữu hơn nữa). Các quyết định như mua hay bán cổ phiếu của doanh nghiệp phản ánh mong muốn của các chủ sở hữu hiên tại và chủ sở hữu tiềm năng đồi với doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp bị thâu tóm, chủ sở hữu cũ không có ưu thế hơn chủ sở hữu mới và những chủ sở hữu mới sau khi thâu tóm có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp và chiếm ưu thế trong cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp. Như vậy, cấu trúc sở hữu bất kể là theo hình thức tập trung hay phân tán đều phản ánh mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho các cổ đông trong doanh nghiệp.


Trong bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa hành vi nhà quản trị, chi phí đại diện và cấu trúc sở hữu, Jensen và Meckling (1976) [75] đã đặt giả thiết tỷ lệ sở hữu của ban quản lý doanh nghiệp là yếu tố ngoại sinh và sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) để thực hiên nghiên cứu. Kết quả của nghiên cứu đã cung cấp những chứng cứ về việc tồn tại mối quan hệ tuyến tính giữa tỷ lệ sở hữu của Ban giám đốc và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể tỷ lệ sở hữu cổ phần của thành viên ban quản lý càng lớn thì các quyết định của nhà quản lý càng có xu hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng như bám sát theo mục tiêu cuối cùng của quản trị doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị tài sản chủ sở hữu.

Tuy nhiên, nghiên cứu thực chứng của Cho (1998) [48] về cấu trúc sở hữu, đầu tư và giá trị doanh nghiệp cho thấy tồn tại mối quan hệ ngược giữa mức độ sở hữu của Ban giám đốc và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tác giả đã tập trung vào giả thuyết rằng việc sở hữu nội bộ ảnh hưởng đến đầu tư, từ đó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp (đo lường bởi Tobin’s Q). Sử dụng các hệ phương trình hồi quy OLS chéo, các tác giả đã tìm ra ảnh hưởng tích cực của đầu tư tới giá trị doanh nghiệp, đồng thời giá trị doanh nghiệp lại ảnh hưởng lên cấu trúc sở hữu nội bộ.

Các nghiên cứu thực nghiệm về mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiêu quả hoạt động của doanh nghiệp ở Mỹ thu được những kết quả khác nhau. Đề xuất về tính chất nội sinh của cấu trúc sở hữu trong đo lường tác động tới hiệu quả hoạt động, Demsetz và Lehn (1985) [58] đã kiểm định thực nghiệm với 511 doanh nghiệp lớn của Mỹ, với sự quan sát các hình thức trong cấu trúc sở hữu của các doanh nghiệp như: sở hữu tổ chức, sở hữu cá nhân, sở hữu của 5 cổ đông lớn nhất. Hai tác giả đã sử dụng các mô hình hồi quy tuyến tính mà trong đó cấu trúc sở hữu được xem là biến nội sinh.

Ngày nay, cấu trúc sở hữu được coi là một trong những nhân tố quyết định hiệu quả hoạt động của công ty đã được công nhận rộng rãi trong các tài liệu tài chính - kinh tế (Cornett và cộng sự, 2009 [54]). Với vai trò là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế, ngân hàng là một đối tượng nghiên cứu phổ biến để kiểm tra mối quan hệ này. Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng đã được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới, bao gồm cả các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển và Việt Nam với những kết quả khác nhau. Sau đây, luận án sẽ hệ thống lại những nghiên cứu nổi bật về chủ đề này lần lượt tại các quốc gia phát triển, quốc gia đang phát triển với nền kinh tế chuyển đổi và Việt Nam.


1.1.1. Nghiên cứu tại các quốc gia phát triển

Sự gia tăng toàn cầu hóa trong ngành tài chính từ những năm 1990 trở lại đây đã dẫn tới những thay đổi đáng kể trong các cấu trúc quyền sở hữu ngân hàng trên toàn thế giới. Ở cả các nước phát triển và đang phát triển, tỷ trọng các ngân hàng do nước ngoài sở hữu tăng lên, trong khi đó đồng thời quyền sở hữu nhà nước tại các ngân hàng có xư hướng giảm. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 đã làm trầm trọng thêm cuộc tranh luận về cơ cấu sở hữu của ngành ngân hàng và những hậu quả đối với các trung gian tài chính. Một số đã chỉ ra sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài ở các nước đang phát triển như là một cơ chế chủ yếu để dẫn truyền cuộc khủng hoảng 2008-2009 từ các nước tiên tiến sang các nước đang phát triển (ví dụ như báo cáo của IMF năm 2009). Đồng thời, các nước đang phát triển như Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ, nơi các ngân hàng do chính phủ quản lý có tầm quan trọng lớn thì hệ thống đã hồi phục nhanh chóng từ cuộc khủng hoảng, tạo ra sự quan tâm đến vai trò các ngân hàng này có thể đảm trách trong giai đoạn khủng hoảng tài chính.

Lý do và ảnh hưởng của chính phủ và sở hữu ngân hàng nước ngoài là một chủ đề gây tranh cãi. Có hai quan điểm ôn hòa của các ngân hàng nhà nước. Quan điểm “xã hội” nhấn mạnh rằng bằng cách giúp vượt qua những thất bại của thị trường và tận dụng các nguồn lực, các ngân hàng nhà nước có thể thúc đẩy các khoản đầu tư nâng cao phúc lợi xã hội (Stiglitz, 1993 [109]). Quan điểm “phát triển” có liên quan nhấn mạnh rằng các ngân hàng nhà nước có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực cho các ngành công nghiệp chiến lược mà khu vực tư nhân không thể hoặc không muốn tài trợ, do đó giúp đẩy nhanh sự phát triển kinh tế (Gerschenkron, 1962 [65]).

Ngược lại, có hai quan điểm nhấn mạnh rằng sở hữu của ngân hàng chính phủ có thể dẫn đến phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Theo quan điểm của người đại diện, ngay cả khi chính phủ có những mục đích tốt nhất, xung đột lợi ích giữa chính phủ và các quan chức được chỉ định để quản lý các ngân hàng do chính phủ quản lý có thể làm tăng thiếu hiệu quả hoạt động và phân bổ sai (Hart và cộng sự, 1997)[68]. Quan điểm “chính trị” cho thấy các ngân hàng nhà nước là cơ chế để các chính trị gia theo đuổi các mục tiêu của họ (ví dụ như tái tranh cử, lợi nhuận cá nhân ...) dẫn đến phân bổ sai tài nguyên (ví dụ như tài trợ cho người ủng hộ hoặc của những người có lợi ích nhóm) và hiệu quả kinh tế không cao (Shleifer và Vishny, 1988 [95]).


Liên quan đến quan điểm này, các mô hình kinh tế chính trị cho thấy các chính trị gia có xu hướng ủng hộ sở hữu ngân hàng của chính phủ khi trách nhiệm giải trình và sự độc lập của tư pháp là thấp, vì các chính trị gia có thể khai thác những lợi ích mà không phải gánh chịu hậu quả cá nhân (Perotti và Vorage, 2010)[102].

Các lập luận chính ủng hộ chủ sở hữu ngân hàng nước ngoài là các ngân hàng nước ngoài có thể mang lại vốn, kỹ thuật và đổi mới sản phẩm (đặc biệt đối với các nước đang phát triển), tăng cường cạnh tranh và nâng cao hiệu quả của ngành ngân hàng (Levine, 1997 [82]). Mặt khác, những ý kiến lo ngại phần lớn tập trung vào việc các ngân hàng nước ngoài có thể gây bất ổn cho ngành ngân hàng địa phương bằng cách truyền những cú sốc từ bên ngoài và đe dọa sự sống còn của các ngân hàng trong nước bằng cách tăng cạnh tranh (Stiglitz, 1993)[109]. Cuối cùng, các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài có thể làm giảm khả năng tiếp cận tài chính cho phần lớn các doanh nghiệp trong nước và người tiêu dùng nếu họ chỉ tập trung vào phân khúc ít rủi ro và minh bạch nhất của thị trường (Detragiache và cộng sự, 2008 [55]).

Theo Gursoy và Aydogan (2002) [66], xét về hình thức của chủ sở hữu, các ngân hàng được chia ra thành ngân hàng quốc doanh, ngân hàng tư nhân, và ngân hàng nước ngoài. Trong đó, sở hữu nhà nước trong ngân hàng phổ biến hơn ở các quốc gia đang phát triển và những quốc gia mà Chính phủ can thiệp nhiều hơn vào thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, theo nghiên cứu này thì ảnh hưởng của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng không có sự khác biệt nhiều ở các quốc gia phát triển. Đồng tình với quan điểm này, nghiên cứu của La Porta và cộng sự (2000)

[80] chỉ ra rằng, với thu nhập bình quân đầu người càng cao thì tác động tiêu cực của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động của NHTM càng giảm, hơn nữa sở hữu nhà nước tại các ngân hàng này lại ít hơn so với những nước đang phát triển. Nghiên cứu này sử dụng số liệu từ 92 NHTM nhà nước của 27 nước phát triển trên toàn thế giới.

Trong nghiên cứu “Bank Ownership and Performance” của Micco và cộng sự [92], xuất bản tháng 11/2004, các tác giả đã xây dựng bộ số liệu gồm xấp xỉ 50,000 quan sát của 119 quốc gia trên thế giới giai đoạn 1995-2002 để mô tả ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở các nước đang phát triển, có mối liên hệ mật thiết giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng, trong khi các quốc gia phát triển lại không có mối liên hệ này, hoặc có nhưng không đáng kể. Sự tác động đối với các quốc gia đang phát triển là


tiêu cực, tức là các ngân hàng có sở hữu nhà nước có mức lợi nhuận thấp hơn, trong khi chi phí lại cao hơn, chủ yếu do số lượng nhân viên lớn hơn các ngân hàng tư nhân và ngân hàng nước ngoài. Điều này cũng dẫn đến một tỉ lệ nợ xấu cao hơn của các ngân hàng có sở hữu nhà nước. Nghiên cứu của Micco và cộng sự năm 2007 đã phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu với hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trên khắp thế giới cũng củng cố thêm kết luận này.

Ngoài những nghiên cứu về sở hữu nhà nước, một số đối tượng khác của cấu trúc sở hữu cũng được quan tâm nghiên cứu. Nghiên cứu của Kosak và Cok (2008)[89] tại 6 quốc gia Đông Nam Âu cũng chỉ ra sự khác biệt rất nhỏ trong khả năng sinh lời giữa ngân hàng nước ngoài và sở hữu trong nước. Nghiên cứu sử dụng các chỉ số về quyền sở hữu ngân hàng như sở hữu trong nước và sở hữu nước ngoài để đo lường cấu trúc sở hữu, và phân tích chỉ số sinh lời trong suốt thời kì 1995 – 2004. Kết qủa nghiên cứu của Claessens và Djankov (1998) [50] tại Cộng hòa Séc lại cho thấy sở hữu bởi nhà đầu tư chiến lược nước ngoài có ảnh hưởng mạnh đến khả năng sinh lời. Trong một nghiên cứu về ngành ngân hàng ở Hy Lạp, Antoniadis và cộng sự (2010) [36] quan sát thấy quyền sở hữu tập trung ở mức độ cao tại các ngân hàng được nghiên cứu dẫn đến gia tăng khả năng sinh lời.

1.1.2. Nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển

Chủ đề nghiên cứu giữa sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng được kiểm chứng tại rất nhiều các quốc gia đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Trong đó vai trò của sở hữu nhà nước luôn đứng ở vị trí trung tâm trong các nghiên cứu này tại các quốc gia này. Tại Trung Quốc, nghiên cứu của Sun và Tong (2003)[110] kết luận rằng sở hữu nhà nước có tác động tiêu cực đến hiệu suất doanh nghiệp, trong khi sở hữu nước ngoài lại không thể hiện rõ ràng việc có tác động tích cực hay không đối với hiệu suất doanh nghiệp. Ngược lại, Clasessens và Djankow (1998) [50] lại cho rằng sở hữu bởi nhà đầu tư chiến lược nước ngoài có ảnh hưởng mạnh đến khả năng sinh lời. Ngân hàng nước ngoài với quyền sở hữu đa số ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi (Middle East and North Africa - MENA) dường như có ảnh hưởng lớn đến hiệu suất doanh nghiệp (Kobeissi, 2004 [77]). Kết quả này tiếp tục được phát triển bởi một nghiên cứu năm 2010 của Kobeissi. Cụ thể, các ngân hàng tư nhân và ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài có chỉ số hiệu quả hoạt động cao hơn so với các ngân hàng khác trong mẫu nghiên cứu. Trong khi đó, các ngân hàng thuộc sở


hữu nhà nước lại có vị trí cuối cùng trong bảng xếp hạng về chỉ số hiệu quả. Cuối cùng, các tác giả kết luận những ngân hàng được niêm yết trên thị trường chứng khoán và ngân hàng có vốn chủ sở hữu nước ngoài có hiệu quả hoạt động cao hơn hẳn.

Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng tại những nước đang phát triển, Micco và cộng sự (2004) [92] đã phát hiện ra mối quan hệ mật thiết giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các NHTM. Nghiên cứu chỉ ra, những NHTMCP có vốn nhà nước chi phối có chỉ số sinh lời thấp hơn nhóm NHTMCP tư nhân. Ngoài ra, những ngân hàng cổ phần có vốn sở hữu nước ngoài là một yếu tố làm tăng chỉ số sinh lời. Theo nghiên cứu của Fungáčová và Poghosyan (2011)[64] tại Nga thì có sự khác biệt trong thu nhập lãi cận biên giữa NHTM thuộc sở hữu nhà nước và các loại hình ngân hàng còn lại.

Nghiên cứu của Berge và cộng sự [41] về thực trạng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Argentina những năm 1990 cũng cho thấy, các ngân hàng quốc doanh sau khi cổ phần hóa đã hoạt động hiệu quả đáng kể, mặc dù trước đó đã phải trải qua một thời gian dài hoạt động tồi tệ. Cũng với vấn đề cổ phần hóa các ngân hàng, nghiên cứu tại Ai Cập của Omran (2007)[45] lại chỉ ra, sau khi tư nhân hóa, một số chỉ tiêu lợi nhuận và tính thanh khoản của các ngân hàng giảm đáng kể, trong khi các chỉ tiêu đo lường hiệu quả khác là hầu như chưa thay đổi. Tuy nhiên, sau một thời gian, kết quả cho thấy rằng những thay đổi hiệu suất tương đối của ngân hàng được cổ phần hóa đã tốt hơn so với những ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nhà nước lớn và kém hơn so với những loại hình ngân hàng khác (tư nhân, nước ngoài). Nghiên cứu của Williams và Nguyen (2005)[110] tập trung vào mối liên hệ giữa hiệu suất hoạt động và quản trị ngân hàng tại năm nước Đông Á (Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan) từ năm 1990 đến năm 2003. Phát hiện của họ cho thấy, các ngân hàng được chọn để sáp nhập, mua lại và cổ phần cho hiệu quả lợi nhuận tương đối thấp khi thay đổi quản trị và xấu đi trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, hiệu quả được cải thiện. Về mặt tổng thể, kết luận của họ có xu hướng thiên về ngân hàng tư nhân và từ chối sở hữu nhà nước mặc dù phát hiện của họ cho thấy những lợi ích tiềm năng của sở hữu tư nhân hay nước ngoài có thể phải mất một thời gian dài để thực hiện được.

Những kết luận trên phù hợp với kết luận của La Porta (2000) [78] khi cho rằng, ở một nước mà hệ thống pháp luật chưa chặt chẽ và quản trị doanh nghiệp trong ngân hàng không hiệu quả thì việc tư nhân hóa sẽ dẫn đến những quan hệ tín


dụng không theo nguyên tắc giữa ngân hàng và các chủ sở hữu của chúng, từ đó, làm giảm hiệu quả hoạt động, lợi nhuận và ảnh hưởng đến chất lượng tài sản trong dài hạn của ngân hàng. Như vậy, sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân chưa hẳn đã hiệu quả nếu như các điều kiện giám sát chưa hoàn thiện, hệ thống luật pháp còn nhiều kẽ hở cho các nhà đầu tư trục lợi.

Những ưu điểm của sở hữu nước ngoài trong hệ thống ngân hàng cũng là một chủ đề thu hút được nhiều sự chú ý. Về cơ bản, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào hệ thống ngân hàng được cho là sẽ đem lại những dấu hiệu tích cực trong cơ chế và hiệu quả hoạt động. Demirguç -Kunt và Huizinga (1999) [56] nhận định rằng, các ngân hàng nước ngoài sẽ thu được lợi nhuận cao hơn so với các ngân hàng nội địa ở các quốc gia đang phát triển, nhưng không đúng với các quốc gia phát triển, do bản thân họ là những ngân hàng có kinh nghiệm điều hành, công nghệ tiên tiến và hoạt động hiệu quả. Classens và cộng sự (2001) [49] cũng đưa ra những kết luận tương tự. Hai nghiên cứu của Bonin, Hasan và Wachtel (2005) [44]; Unite và Sullivan (2003) [115] cho thấy sự hiện diện của yếu tố nước ngoài tại các ngân hàng Philipines làm giảm chênh lệch lãi suất và chi phí hoạt động của các ngân hàng trong nước, tương ứng với một sự cải tiến trong hiệu suất hoạt động. Bên cạnh đó, các ngân hàng nước ngoài còn tác động tích cực đến tính cạnh tranh trong ngành, thông qua đó, cải thiện năng lực cạnh tranh của các ngân hàng nội địa do các ngân hàng này phải cạnh tranh để tồn tại. Có được điều này là do các ngân hàng có yếu tố nước ngoài tận dụng được những kinh nghiệm trong quản trị và kinh doanh, biết tận dụng những ưu thế từ các ngân hàng mẹ, như công nghệ, mô hình hoạt động, các sản phẩm dịch vụ.

Nghiên cứu của Ugur và Erkus (2010)[114] tại Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ kết luận rằng ngân hàng nước ngoài có thu nhập lãi cao hơn ngân hàng trong nước và nghiên cứu của Hamadi và Awdeh (2012) [67] tại Lebanon cho thấy thu nhập lãi cận biên có sự khác biệt giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài.

Bên cạnh sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài, các vấn đề khác của cấu trúc sở hữu cũng được nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển. Nghiên cứu của Uwuigbe và Olusanmi năm 2012 [116] về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu với tình hình hoạt động của 31 công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính của Nigeria trong giai đoạn 2006 – 2010 đã chỉ ra: (1) Hiệu quả hoạt động của công ty tỷ lệ thuận với tỷ lệ sở hữu của cổ đông là thành viên Ban giám đốc. Điều này có nghĩa, những công ty


có tỷ lệ cổ đông là thành viên của ban giám đốc cao thì sẽ hoạt động tốt hơn; (2) Cổ đông nước ngoài cũng mang lại những hiệu quả tích cực trong hoạt động của công ty, do sự quản lý công ty hiệu quả hơn, và nhờ những kỹ năng và kỹ thuật mới mà các cổ đông nước ngoài này mang đến cho công ty và (3) Cổ đông tổ chức có vai trò quan trọng với hiệu quả hoạt động của công ty, nhờ vào vai trò giám sát tốt của nhóm cổ đông này. Tương tự, nghiên cứu của Rokwaro (2013) [104] tại Kenya cũng cho rằng vốn chủ sở hữu nước ngoài, sở hữu tư nhân trong nước có mối tương quan tích cực đến chỉ số sinh lời ngân hàng, trong khi sở hữu nhà nước lại có tác động tiêu cực. Rokwaro và cộng sự (2013) [104] đã sử dụng biến phụ thuộc là tỷ suất lợi tức trên vốn tự có (ROE) để đo lường kết quả hoạt động của ngân hàng, các biến độc lập là mức độ tập trung vốn, tỷ lệ sở hữu nước ngoài, tỷ lệ sở hữu trong nước và tỷ lệ sở hữu nhà nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ sở hữu lớn có tác động ngược chiều đến ROE, trong khi đó tỷ lệ sở hữu nước ngoài tỷ lệ thuận với ROE. Đồng thời, tác giả cũng phát hiện ra mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ lệ sở hữu trong nước và khả năng sinh lời của các ngân hàng ở Kenya. Ngược lại, sở hữu nhà nước có quan hệ ngược chiều với khả năng sinh lời.

Cũng nghiên cứu tại Trung Quốc, kết quả nghiên cứu của Wen (2010) [119] khi khảo sát 50 ngân hàng ở Trung Quốc trong ba năm 2003, 2006 và 2008 đã nhận thấy, không có mối liên hệ tuyến tính nào giữa mức độ tập trung sở hữu đến khả năng sinh lời, biểu hiện bằng ROA, ROE của các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần và các ngân hàng ở thành phố. Tuy nhiên, sau khi xây dựng mô hình hồi quy quadratic model, ông lại tìm ra mối quan hệ tuyến tính thuận chiều giữa mức độ tập trung sở hữu đến ROA trong năm 2006 và 2008.

1.1.3. Nghiên cứu tại Việt Nam

Nhìn chung, số lượng những nghiên cứu quốc tế về hiệu quả hoạt động của các NHTM ở Việt Nam là tương đối ít. Nghiên cứu về về mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động lại càng không có nhiều. Vì vậy, các bằng chứng của nội dung này chủ yếu đề cập đến những nghiên cứu quốc tế dành cho các nhóm nước trong đó có Việt Nam, chẳng hạn như nhóm các quốc gia đang phát triển, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, ASEAN… Thêm vào đó, những nghiên cứu tại Trung Quốc cũng có thể được dùng làm cơ sở cho những phân tích tại Việt Nam do mối tương đồng giữa hai hệ thống ngân hàng hai nước. Sau đây là một số nghiên


cứu tiêu biểu của các tác giả trong nước và nước ngoài về chủ đề nghiên cứu này tại Việt Nam.

Trong nghiên cứu của mình, Cornett và cộng sự (2009) [54] đã tiến hành nghiên cứu tại 16 nước khu vực Đông Á, giai đoạn 1989 – 1998, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ngân hàng có sở hữu nhà nước hoạt động có lợi nhuận thấp hơn rõ rệt, tỷ lệ vốn cấp một thấp hơn nhưng rủi ro tín dụng lại cao hơn tương đối, thanh khoản thấp hơn và hiệu quả quản lý cũng thấp hơn so với ngân hàng tư nhân. Số liệu của báo cảo từ Bộ Tài chính Việt Nam năm 2012 cũng chỉ ra, tỷ lệ các khoản nợ mà các doanh nghiệp nhà nước không có khả năng trả là khoảng 20 -30% tổng nợ, ước khoảng 415 nghìn tỷ đồng. Trong đó, phần lớn các khoản nợ được tài trợ bởi các NHTM nhà nước nắm cổ phần chi phối. Để giải quyết tình trạng này, một công ty quản lý tài sản của các TCTD đã ra đời năm 2013 nhằm xử lí những khoản nợ này nói riêng, các khoản nợ xấu trong toàn hệ thống nói chung. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp mang tính tạm thời. Về mặt dài hạn, yêu cầu phải có một sự đổi mới mạnh mẽ trong hoạt động của toàn hệ thống, mà trước hết là tái cấu trúc NHTM nhà nước.

Nghiên cứu của Vu & Turnel (2010) [117] chỉ ra rằng, năng suất của các ngân hàng Việt Nam có sở hữu nhà nước đang có xu hướng giảm. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2000 – 2008. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu của các tác giả trong nhóm nước đang phát triển.

Các tác giả Thangavelu và Findlay năm 2009 [113] nghiên cứu hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại các quốc gia Đông Nam Á gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam từ năm 1994 đến 2008 đã đi đến kết luận sự tham gia và sở hữu ngân hàng của các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng làm tăng hiệu quả của ngân hàng.

Nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Thu Hà (2006) [15] chỉ ra rằng tại Việt Nam, ngân hàng do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn cổ phần có hiệu quả hoạt động kém hơn các loại hình ngân hàng khác trong nền kinh tế. Tuy cũng có kết luận rằng NHTM nhà nước hoạt động kém hiệu quả hơn các NHTM khác, nhưng nghiên cứu của Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2013) [25] lại chỉ ra, loại hình ngân hàng có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thông qua chỉ số ROE mà không thông qua chỉ số ROA. Nghiên cứu này phân tích số liệu của 39 ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2005-2012.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/04/2022