quán cũng như pháp luật. Điều này thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng trong gia đình.
Thực tế hiện nay chúng ta thấy có mấy dạng vi phạm nghĩa vụ chung thuỷ hay còn gọi là ngoại tình:
+ Vợ hoặc chồng có quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân nhưng vẫn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ với gia đình. Dạng vi phạm này thường không gây ra hậu quả nghiêm trọng về vật chất, bạo lực đối với gia đình. Tuy vậy có thể gây ra sự tổn thất về mặt tinh thần khá nặng nề. Sự vi phạm này có thể kéo dài liên tục, có thể công khai hoặc bí mật.
+ Vợ hoặc chồng có quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân và không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ với gia đình. Quan hệ này có thể công khai hoặc bí mật và có thể kéo dài hoặc nhất thời. Trường hợp này rõ ràng là có thể có nguy cơ gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn đối với gia đình so với trường hợp trên.
Thiết nghĩ trong thực tế khi họ vi phạm nghĩa vụ này thường họ lén lút, vụng trộm, rất ít trường hợp công khai. Do đó, có quan điểm lại cho rằng quan hệ đó có thể công khai hoặc bí mật nhưng phải kéo dài liên tục và gây ra hậu quả nhất định cho gia đình về mặt tinh thần và vật chất thì được coi là chung sống như vợ chồng trái pháp luật.
Đồng thời, vấn đề ngoại tình xảy ra thường xuyên, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình. Từ việc tiếp diễn nhiều lần, không có sự thay đổi của người có lỗi, nên vấn đề ngoại tình đó hoàn toàn có thể xem xét làm căn cứ ly hôn.
Theo quy điṇ h taị Điều 147 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm”.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận quan hệ ngoại tình là một trong những căn cứ ly hôn. Điều này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đây là một quy định rất tiến bộ mang ý nghĩa quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền con người và bảo vệ quyền con người trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Cuả Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Giai Đoạn Từ 1945- 1954
- Căn Cứ Ly Hôn Trong Trường Hợp Thuận Tình Ly Hôn
- Căn Cứ Ly Hôn Trong Trường Hợp Ly Hôn Do Một Bên Vợ Hoặc Chồng Yêu Cầu
- Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 - 8
- Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 - 9
- Thực Tiễn Áp Dụng Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Năm 2014 Qua Một Số Vụ Án Cụ Thể.
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
“Đời sống chung” của vợ chồng có thể hiểu là sự chung sống cùng nhau của hai vợ chồng và các thành viên trong gia đình, trong đó, họ cùng có lối sinh hoạt, điều hòa tính cách, sở thích... cùng nhau giải quyết những khó khăn vướng mắc xảy ra trong quá trình chung sống, cùng nhau chia sẻ để có một cuộc sống hôn nhân bền vững.
Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng hay chưa. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
Quy định về đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được xác định căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như đã hướng dẫn ở trên. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau,
thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
Trường hợp vợ chồng có tình trạng trầm trọng nhưng vẫn có thể giải quyết vấn đề, có cơ hội để các bên tha thứ, sửa lỗi thì việc xây dựng, củng cố quan hệ gia đình là hoàn toàn có thể, vấn đề ly hôn sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, tình trạng trầm trọng của vợ chồng mà không thể tháo gỡ, giải quyết được, tình trạng này kéo dài thì sẽ dẫn tới quan hệ hôn nhân sẽ tan vỡ.
Mâu thuẫn gia đình chủ yếu phát sinh từ việc vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cách suy nghĩ, khó khăn kinh tế gia đình.... họ có nhiều xích mích, hiểu lầm, ghen tuông, đố kỵ, hẹp hòi, mâu thuẫn trong việc nuôi dạy con cái... Những mâu thuẫn “tích tiểu thành đại” ngày một lớn dần lên, khiến cho đời sống hôn nhân trở lên “trầm trọng”, không thể kéo dài; ly tán là không thể tránh khỏi. Vấn đề này ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của vợ chồng, các thành viên trong gia đình, đặc biệt là việc giáo dục con cái.
Mục đích của hôn nhân không đạt được
Quy định về mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
Mục đích của hai người không phải bao giờ cũng giống nhau. Hôn nhân có thể đem đến cho người này nhưng lại không làm thoả mãn mục đích của người kia hoặc cả hai người. Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu được mục đích của hôn nhân. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân với mục đích rất phong phú và có thể thay đổi nhưng mục đích của hôn nhân lại mang tính cố
định duy nhất. Bất cứ một cuộc hôn nhân nào, nếu không đạt được mục đích đó thì việc duy trì nó là không cần thiết và vợ chồng có thể được ly hôn.
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” thì thường dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của hôn nhân không đạt được”. Mục đích của hôn nhân là tình yêu giữa nam và nữ muốn chung sống với nhau suốt đời, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững trên cơ sở giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Con người tiến tới hôn nhân với mục đích mong muốn có được một cuộc sống hạnh phúc. Do vậy, khi mục đích hôn nhân “không đạt được” thì quan hệ hôn nhân thường có tác động ngược lại. Khi đó chấm dứt hôn nhân được giải quyết bằng việc ly hôn.
Mục đích của hôn nhân nói chung xuất phát từ bản chất của hôn nhân. Toà án không thể dựa vào mục đích của hai người kết hôn mà xem xét có đạt được hay không để giải quyết ly hôn. Phần lớn mục đích của nam và nữ trước khi kết hôn là hướng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững nhưng cũng có nhiều cuộc hôn nhân được xác lập bắt đầu từ những mục đích khác nhau. Dù cho họ từng kết hôn với mục đích nào đi chăng nữa thì mục đích của hôn nhân bền vững, hạnh phúc vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất kỳ ai kết hôn cũng hướng tới. Tuy nhiên, mục đích của vợ hay chồng đôi khi cũng ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình nếu như nó không đạt được sau khi kết hôn.
Việc xác định bản chất quan hệ hôn nhân được dựa vào yếu tố lỗi của vợ chồng, hành vi của các bên được miêu tả là lặp đi lặp lại nhiều lần, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tư tưởng, tình cảm, đời sống chung của vợ chồng. Ở trường hợp này, lỗi có thể do một bên vợ hoặc chồng, hoặc lỗi của cả hai vợ chồng. Tình trạng vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, xét về mặt chủ quan, quan hệ hôn nhân đổ vỡ luôn xuất phát từ việc họ không biết tự bảo vệ hạnh phúc của gia đình,
nên có thể hiểu rằng cả hai vợ chồng đều có lỗi thì mới đủ căn cứ, cơ sở để giải quyết ly hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thể hiện sự tiếp thu quy định của một số nước trên thế giới khi có sự kết hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố lỗi để giải quyết việc ly hôn.
Nước Cộng hòa Pháp coi hôn nhân là một hợp đồng như những hợp đồng dân sự khác. Bộ Luật Dân sự Cộng hòa Pháp (Luật số 65-570 năm 1965), Điều 243 quy định: “Vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chồng làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Theo quy định này, một bên vợ hoặc chồng làm đơn đến Toà án xin ly hôn trong đó có nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia thừa nhận lỗi trước Toà thì Toà sẽ tuyên ly hôn. Điều 230 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp quy định: “Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì không phải nói rõ lý do”, trong trường hợp này, căn cứ cho ly hôn được xác định nếu việc ly hôn do một bên xin với lý do bên kia làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận thì thẩm phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần xem xét với yếu tố lỗi. Như vậy, trong trường hợp này ly hôn được giải quyết theo sự thoả thuận của đương sự. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự Pháp cũng có xét đến tình trạng hôn nhân trên thực tế của vợ chồng, Toà án sẽ xử cho ly hôn, nếu tính tình của một người đã thay đổi đến mức không thể sống chung được nữa và theo những dự đoán có lý nhất, không thể được khôi phục trong tương lai.
Qua đó, có thể thấy rằng việc đưa ra những nguyên nhân của hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được để cụ thể hóa căn cứ cho ly hôn “vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đây là
một quy định rất tiến bộ mang ý nghĩa quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền con người và bảo vệ quyền con người trong tiến trình hội nhập quốc tế. Điều này cũng tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khi giải quyết việc ly hôn trong cả nước.
2.2.2. Vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải giải phóng chồng thoát khỏi hoàn cảnh đặc biệt này, khi họ có yêu cầu được ly hôn với người vợ hoặc chồng đã bị tòa án tuyên bố mất tích. Khoản 2 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”.
Đây cũng là quy định kế thừa Luật HN&GĐ năm 2000, và xuất phát từ thực tế cuộc sống vợ chồng . Trên cơ sở bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người vợ, người chồng của người đã bỏ đi biệt tích thì pháp luật cho phép họ được chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng ly hôn. Như vậy, quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án đối với một bên vợ hoặc chồng được coi là căn cứ ly hôn. Nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết cho họ được ly hôn.
Tuyên bố một người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ thể không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đã chết. Theo quy định tại khoản 1 Điều 78 BLDS 2005 quy định: “1. Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng”
Như vậy, khi vợ hoặc chồng biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó.
Việc vợ hoặc chồng xin ly hôn với người mất tích, ta thấy pháp luật hôn nhân và gia đình quy định đó là một căn cứ ly hôn là hoàn toàn phù hợp với mục đích của hôn nhân. Khi một trong hai bên bị tuyên bố mất tích, có nghĩa là một bên đó không có mặt ở nhà, không cùng chung sống, xây dựng hạnh phúc gia đình trong hai năm liên tục trở lên. Chính sự vắng mặt đó đã làm góp phần cho quan hệ vợ chồng trở lên phức tạp hơn, trầm trọng hơn. Quan hệ hôn nhân lúc đó chỉ tồn tại mang tính hình thức. Pháp luật quy định này có tính chất giống trường hợp “bỏ lửng vợ” trong pháp luật phong kiến xưa, và khi đó, người vợ có quyền kiện đòi ly hôn.
Việc tuyên bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng như các chủ thể có liên quan. Việc quy định căn cứ ly hôn này xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của vợ, chồng, nhằm đảm bảo cả lợi ích của người có quyền và lợi ích liên quan. Đồng thời, hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế khách quan, giải quyết nhiều vấn đề trong hôn nhân.Quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án đối với vợ hoặc chồng không đương nhiên làm chấm dứt quan hệ hôn nhân, mặc dù nó được
xác định là một căn cứ ly hôn. Chỉ khi có yêu cầu ly hôn của đương sự thì Tòa án mới giải quyết cho ly hôn. Nếu đương sự không yêu cầu ly hôn thì quan hệ hôn nhân vẫn đương nhiên tồn tại.
Tóm lại, trường hợp ly hôn do có người bị tuyên bố mất tích, thì chính quyết định tuyên bố mất tích là căn cứ để ly hôn, thẩm phán không cần xác minh đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Ta nói rằng việc ra quyết định cho ly hôn trong trường hợp này là đương nhiên. Khi người chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích mà người vợ yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Điều này để đảm bảo quyền nhân thân của người vợ như việc tham gia quan hệ kết hôn mới...hoặc cũng đảm bảo việc quản lý tài sản của người chồng để đảm bảo cho cuộc sống gia đình, phát triển kinh tế.
Như vậy, việc yêu cầu ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng đã được Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định mở rộng hơn trên cơ sở đó quyền lợi của người vợ cũng được đảm bảo hơn. Khi người vợ hoặc người chồng thực hiện quyền yêu cầu ly hôn thì quyền làm mẹ của người vợ vẫn được đảm bảo thực hiện thông qua các quy định của pháp luật. Theo quy định, người mẹ vẫn được pháp luật đảm bảo quyền trông nom, chăm sóc giáo dục con. Trong một số trường hợp, pháp luật còn đảm bảo quyền ưu tiên dành quyền nuôi con cho người vợ khi con dưới 36 tháng tuổi.
2.3 Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích khác
Tại Khoản 2, Điều 51 trong Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định như sau: 2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân