Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 - 9

Pháp luật Việt Nam công nhận quyền bình đẳng trong hôn nhân, thừa nhận tính tự nguyện trong kết hôn và ly hôn. Tuy nhiên, đối với trường hợp thuận tình ly hôn, cần lưu ý rằng sự tự nguyện của hai vợ chồng không là căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân, mà sự tự nguyện của hai vợ chồng yêu cầu chấm dứt ly hôn chỉ là cơ sở để Tòa xét xử. Cho nên, dù vợ chồng có thuận tình ly hôn thì việc xét xử vẫn phải theo đúng quy định của pháp luật. Sự “tự nguyện ly hôn” nghĩa là thật sự vợ chồng không thể tiếp tục duy trì quan hệ chung sống, sự tự nguyện ly hôn phải phù hợp với thực trạng quan hệ vợ chồng.

Thứ hai, công tác xác minh về căn cứ ly hôn của Tòa án.

Thực tế, Hội đồng xét xử và những người bên ngoài không thể đánh giá thấu đáo được thực trạng hôn nhân của các đương sự thấu đáo, chính xác. Hơn nữa, có những nguyên cớ, hành vi, cách ứng xử giữa vợ và chồng mang nặng tính riêng tư, không phải trường hợp nào đương sự cũng khai cụ thể và cung cấp chứng cứ để chứng minh. Đặc biệt các căn cứ ly hôn được xác định do bên thứ ba yêu cầu Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn, các bên thứ ba là người ngoài của quan hệ hôn nhân, không thể đưa ra những chứng cứ thuyết phục, có căn cứ về quan hệ hôn nhân trầm trọng của hai vợ chồng.

Bên cạnh đó, tính gắn kết trong đời sống cộng đồng, nhất là sự quan tâm giữa gia đình này, với gia đình khác trong cùng một khu vực sống ngày một khoảng cách hơn; hoạt động của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ quyền, lợi của thanh niên, phụ nữ, trẻ em vị thành niên…chưa thật sự mang lại hiệu quả. Các điều kiện này đã làm cho công tác thu thập chứng cứ, tìm hiểu, đánh giá thực trạng hôn nhân của đương sự từ phía cơ quan tiến hành tố tụng không thuận lợi, thậm chí rất khó khăn.

Việc phân công bố trí Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án mang tính tùy nghi. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các Thẩm phán còn nhiều hạn chế,

chưa kịp thời cập nhật những văn bản pháp luật có liên quan tới giải quyết án ly hôn; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa chủ động tích cực trong nghiên cứu hồ sơ vụ việc, xác định không đúng thực trạng của đời sống hôn nhân của vợ chồng. Bên cạnh đó, tiếng nói của Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên còn hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ, trẻ em, và vấn đề hòa giải cơ sở. Đây là khó khăn trong quá tình giải quyết vụ án ly hôn tại Tòa.

Nhiều trường hợp Hội đồng xét xử chỉ căn cứ vào lời khai của vợ, chồng để đánh giá thực trạng hôn nhân của đương sự có thỏa mãn Điều 56 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014 hay không; thậm chí có trường hợp lời khai của các bên có mâu thuẫn nhau về chứng minh thực trạng hôn nhân nhưng Hội đồng xét xử vẫn quyết theo “suy đoán nội tâm” mà không có chứng cứ nào khác. Dưới đây là một số ví dụ cụ thể:

Ví dụ: Hồ sơ vụ án tại cấp sơ thẩm: Bà N và ông T kết hôn từ năm 2013. Trong quá trình sống chung, năm 2013 bà N vay tiền hàng trăm triệu tiêu xài riêng, ông T giận nên có đốt quần áo, tài sản của bà N. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nhưng được hòa giải nên về sống chung với nhau. Năm 2014, bà N ngoại tình, nhưng được hòa giải nên hai người chấp nhận bỏ qua lỗi lầm về sống chung với nhau. Trong thời gian sống chung sau này, ông T thừa nhận có đánh đập vợ, bà N không sống chung được nên thuê nhà ở riêng, ông T và các con cũng đến nhà thuê để ở chung với bà N, nhưng sau đó bà N lại thuê nhà khác để ở, không cho ông T biết. Bà N cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể tiếp tục sống chung với nhau nên xin ly hôn. Ông T cho rằng mặc dù vợ có sai lầm nhưng ông vẫn tha thứ, vẫn còn thương vợ nên xin đoàn tụ.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định hôn nhân hai người chưa mâu thuẫn trầm trọng, vẫn có khả năng hàn gắn được nên bác đơn xin ly hôn của bà N.

Tòa án phúc thẩm nhận định tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên xử chấp nhận kháng cáo của bà N, cho bà N ly hôn với ông T. Từ khi xét xử phúc thẩm đến nay, ông T không khiếu nại.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Như vậy, trong tình huống này, Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của vợ, chồng để đánh giá thực trạng hôn nhân của đương sự mà không xem xét, điều tra tình trạng thực tế; thậm chí lời khai của các bên có mâu thuẫn nhau về chứng minh thực trạng hôn nhân nhưng Hội đồng xét xử vẫn quyết bác đơn xin ly hôn của bà N mà không có chứng cứ nào khác.

Ví dụ: Ông H và bà K kết hôn từ năm 1999. Từ năm 2009 hai người phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là tính tình hai bên không hợp nhau, năm 2010 ông H bỏ về Đà Nẵng sống riêng, bà K ở tại Tam Kỳ. Vợ chồng không sống chung từ năm 2010 đến nay, ông H xin ly hôn, bà K yêu cầu đoàn tụ vì cho rằng vợ chồng bà không có gì mâu thuẫn, bà đang điều trị bệnh nên không thể sống khi không có chồng, con chăm sóc, giúp đỡ. Cụ thể bà đã bị bệnh U tuyến thượng thận, sau khi mỗ vẫn tiếp tục điều trị; việc ông H về Đà Nẵng sống là làm ăn để kiếm tiền chữa bệnh cho bà và nuôi con. Tòa án cấp sơ thẩm xử bác đơn ly hôn. Tại phiên tòa phúc thẩm, hai bên thuận tình ly hôn nên cấp phúc thẩm đã công nhận sự thỏa thuận của đương sự.

Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 - 9

Hai vụ án trên cho thấy, kết quả đánh giá thực trạng hôn nhân và phán quyết của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm còn chỗ chưa sát với điều kiện hôn nhân trên thực tế của đương sự. Nhất là khi nghiên cứu phần “Xét thấy” của hai bản án sơ thẩm trên, lập luận của Hội đồng xét xử bác yêu cầu xin ly hôn của đương sự mang tính chung chung, chưa phân tích rõ các điều kiện theo quy định của Điều 56 Luật HN&GĐ 2014.

Đó là trường hợp các đương sự chưa thống nhất về quan hệ hôn nhân. Còn đối với trường hợp tại phiên tòa các đương sự đã thuận tình ly hôn, đa

phần các bản án phân tích nguyên nhân để chấp nhận cho ly hôn “ngắn” hơn,“khái quát” hơn, thậm chí không cần phân tích mà xác định ngay rằng: “Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân của ông A và bà B không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên công nhận sự thuận tình ly hôn của đương sự…”!

Theo quy định của pháp luật TTDS thì nhiệm vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ thuộc về đương sự và Tòa án chỉ xác minh điều tra khi cần thiết. nhưng thực tế, khi giải quyết một vụ việc cụ thể, Tòa án phải tự điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ xây dựng hồ sơ vụ việc. Trong các vụ việc ly hôn, Tòa án phải tự mình thu thập chứng cứ, nhiều trường hợp các bên đương sự còn gây khó khăn cho quá trình làm việc của Tòa án. Khi các bên đương sự yêu cầu ly hôn với những động cơ khác nhau có thể dẫn tới ly hôn giả tạo. Bởi vậy, vai trò của Tòa án trong việc xác định tình trạng hôn nhân là vô cùng quan trọng.

Khi tiến hành giải quyết ly hôn, nhiều Tòa đã có những sai phạm từ việc điều tra không đầy đủ, chưa làm rõ nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chưa đánh giá đúng mực tình trạng hôn nhân. Để có đủ căn cứ chứng minh tình trạng hôn nhân, đòi hỏi Thẩm phán cần có sự sáng suốt, công minh, có trách nhiệm.

Thứ ba, xuất hiện nhiều tình trạng ly hôn thuận tình giả tạo, lừa dối cơ quan chức năng.

Bộ Tư pháp cho biết, hành vi ly hôn giả tạo được giải thích tại Khoản 15 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau: “Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân".

Các căn cứ ly hôn giả được các bên tạo dựng lên để nhằm thực hiện mục đích của cá nhân. Bản chất giữa hai vợ chồng hoàn toàn không có mâu

thuẫn, họ không muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân, tuy nhiên, cả hai bên cùng đưa đơn ra Tòa để Tòa công nhận thuận tình ly hôn. Mục đích của hành vi đó có thể là chuyển hộ khẩu, phụ cấp người ăn theo, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản... Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân

Nếu Tòa không điều tra kỹ càng, có thể dẫn tới trường hợp Tòa sẽ đưa ra các quyết định công nhận sai lầm, không đúng với quy định của pháp luật. Đồng thời, pháp luật phải nghiêm khắc phê bình những đương sự có hành vi sai sót, lừa dối đó.

Nguyên nhân của những sai sót, tồn tại:

Các sai sót, tồn tại trên xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Thứ nhất: các chế định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nói chung và các quy định về căn cứ ly hôn nói riêng đã được qui định nhưng chưa được hướng dẫn là nguyên nhân chính dẫn đến kết quả phán quyết của Hội đồng xét xử không thống nhất, thiếu giá trị áp dụng vào thực tiễn, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là quyền lợi của các con sau khi cha, mẹ ly hôn.

Thứ hai: Lượng án hôn nhân và gia đình hằng năm tăng mạnh. Trong khi đó, biên chế Thẩm phán, Thư ký Tòa án không tăng. Điều này tạo áp lực lớn về tiến độ công việc khi giải quyết loại án này. Chính yêu cầu phải giải quyết nhanh, giải quyết sớm vụ việc đã khiến Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thiếu kiên trì trong hòa giải đoàn tụ, phán quyết vụ việc khi chứng cứ pháp lý chưa chắc chắn, thiếu tính thuyết phục.

Thứ ba: một số ít Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thiếu đầu tư nghiên cứu khi tham gia xét xử, đặc biệt là quá trình điều tra, phân tích tinh trạng hôn

nhân thực tế, xem xét căn cứ ly hôn của vợ và chồng. Trong khi đó, theo yêu cầu của xã hội thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử án hôn nhân gia đình phải là người có năng lực tốt về nghiệp vụ, có kiến thức sâu, rộng về hôn nhân, gia đình, xã hội; có tinh thần, trách nhiệm cao với cuộc sống cộng đồng. Tồn tại này có cả trong tâm lý phân công người tiến hành tố tụng của số ít lãnh đạo Tòa án cấp sơ thẩm.

Bên cạnh đó, một thực tế đáng buồn là xã hội càng phát triển hiện đại thì càng có nhiều cặp vợ chồng tan vỡ hôn nhân. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình cảnh các cặp đôi không còn con đường nào khác là “ly hôn”? Thông thường khi ra tòa để giải quyết ly hôn các cặp vợ chồng thường lấy một lý do rất phổ biến là “không hợp nhau”. Đó có phải là nguyên nhân chính làm tan vỡ hôn nhân hay không?

Mâu thuẫn vợ chồng

Mâu thuẫn, xung đột, bạo lực kéo dài, triền miên từ năm này sang năm khác giữa hai vợ chồng cũng là một loại nguyên nhân dẫn đến ly hôn. Trong những gia đình loại này, ban đầu nạn nhân của bạo lực gia đình (nhất là người vợ) không nghĩ và tính đến việc ly hôn. Họ có xu hướng chịu đựng để gia đình đoàn tụ, con cái có cả bố và mẹ. Chỉ đến khi họ không chịu đựng được nữa, ý thức về sự tự do, quyền bình đẳng, hạnh phúc trong họ được thức tỉnh, họ thấy được những ảnh hưởng tiêu cực của bạo lực gia đình đối với trẻ và bản thân lúc đó họ sẽ ly hôn. Ly hôn được xem như là một giải pháp giải phóng chính bản thân họ và con cái họ.

Nguyên nhân khiến các cặp vợ chồng ghi trong đơn ly hôn nhiều nhất có lẽ là: không hợp nhau, hay nói cách khác là mâu thuẫn về lối sống. Nguyên nhân này thường thấy nhất ở những cặp vợ chồng trẻ. Thông thường, khi yêu nhaungười ta nhìn nhau và nhìn đời qua lăng kính màu hồng. Còn khi đã trở thành vợ chồng, họ lộ diện đầy đủ cả tốt và xấu. Không biết chấp nhận cái

xấu, khó chịu với những khác biệt giữa hai người, ly hôn đương nhiên là điều khó tránh.

Ví dụ: Bản án số: 02/2011/HNGĐ-ST của TAND huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày 11 tháng 5 năm 2011về tranh chấp hôn nhân gia đình. Nguyên đơn: Anh Hoàng Văn Bành. Bị đơn: Chị Lục Thị Biên.

Anh Bành và chị Biên được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán vào ngày 06/10/2006, trước khi cưới có được tìm hiểu tự nguyện đến với nhau, và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vạn Linh. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc được hơn một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh về làm rể sống bên nhà chị Biên, gia đình bố mẹ và chị Biên luôn có những lời nói xúc phạm đến anh, bản thân anh và chị Biên chưa thực sự hiểu nhau nên dẫn đến bất đồng về quan điểm. Những lần cãi chửi nhau xong anh lại nghĩ đến con, thương con nên anh đã cố gắng khuyên nhủ chị Biên thay đổi cách cư sử với anh, nhưng chị không thay đổi. Do vậy anh đã bỏ về bên nhà bố mẹ đẻ của anh sống từ tháng 6/2008. Năm 2009 anh Bành viết đơn xin ly hôn với chị Biên tại Toà án nhân dân huyện Chi Lăng và Toà án đã bác đơn khuyên hai vợ chồng về đoàn tụ. Nhưng sau khi về đoàn tụ tình cảm giữa anh và chị Biên vẫn không có tiến triển tốt, anh vẫn sống bên nhà bố mẹ đẻ và sống ly thân với chị Biên từ tháng 6/2008 cho đến nay. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh Bành xin được ly hôn với chị Biên.

Toà án đã bác đơn xin ly hôn và khuyên anh chị về đoàn tụ. Sau khi Toà xử cho về đoàn tụ chị Biên đã đến nhà anh Bành để đón anh Bành về làm ăn, nhưng gia đình anh Bành chửi mắng không cho chị vào nhà, do vậy chị và anh Bành vẫn chưa đoàn tụ được ngày nào. Nay anh Bành xin ly hôn với chị, chị không đồng ý vì chị vẫn còn tình cảm với anh Bành và đề nghị Toà án giải quyết cho chị và anh Bành được đoàn tụ.

Như vậy, trong tình huống này, căn cứ theo Điều 56 của Luật HN&GĐ 2014, TAND đã xét đầy đủ các căn cứ ly hôn của các bên, xem xét kỹ lưỡng hoàn cảnh thực tế của tình trạng hôn nhân của hai bên, tạo điều kiện đoàn tụ cho các bên. Nhưng sau khi Toà xử cho về đoàn tụ anh Bành chị Biên vẫn chưa về chung sống với nhau ngày nào mà vẫn tiếp tục sống ly thân cho đến nay. Điều này chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa anh Bành và chi Biên không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho anh chị được ly hôn để giải phóng cho cả hai bên. Vì vậy Toà chấp nhận yêu cầu được ly hôn của anh Hoàng Văn Bành là hoàn toàn đúng đắn, chính xác.

Nhiều cặp vợ chồng ly hôn nhau vì mâu thuẫn với bố mẹ hai bên chứ không phải mâu thuẫn giữa hai vợ chồng. Chính từ việc thiếu kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình làm cho công việc gia đình không được thực hiện hoặc thực hiện không tốt, mâu thuẫn, xung đột gia đình xảy ra. Khi đó, bố mẹ chồng hoặc bố mẹ vợ sẽ can dự vào, nguy cơ mâu thuẫn gia đình lan rộng và trở nên gay gắt: mâu thuẫn giữa con dâu và mẹ chồng, mâu thuẫn giữa bố mẹ hai bên. Trong khi mâu thuẫn, xung đột, các bên xúc phạm lẫn nhau làm cho mỗi người cảm thấy bị tổn thương và mệt mỏi.

Ngoại tình

Ngoại tình có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có một điểm chung là ngoại tình phá hủy hạnh phúc gia đình, dẫn đến hai vợ chồng ly hôn. Đàn ông ngoại tình dẫn đến ly hôn thấp hơn phụ nữ ngoại tình dẫn đến ly hôn. Phụ nữ có thể dễ dàng bỏ qua sự không chung thủy của đàn ông ngược lại người đàn ông rất khó chấp nhận sự phản bội của phụ nữ. Khi người phụ nữ ngoại tình họ đã hình dung ra trước hậu quả của nó với gia đình, do vậy họ sẽ dễ chấp nhận việc ly hôn dễ dàng hơn.

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 23/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí