Căn Cứ Ly Hôn Qua Các Giai Đoạn Phát Triển Của Pháp Luật Việt Nam

Do ly hôn là mặt trái của hôn nhân, và khi ly hôn thường kéo theo nhiều hệ lụy xấu, ảnh hưởng đến nhiều thành viên trong gia đình và xã hội. Vì vậy, ở mỗi giai đoạn tùy theo yêu cầu của tình hình thực tế và chính sách của Đảng và Nhà nước mà việc áp dụng pháp luật về căn cứ cho ly hôn phải phù hợp với chủ trương đó.

Thông thường hoạt động áp dụng pháp luật thường được tiến hành theo ý chí đơn phương của chủ thể áp dụng. Tuy nhiên, đối với hoạt động áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn do mang tính đặc thù riêng nên pháp luật thường tôn trọng và lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các bên chủ thể. Và thường ghi nhận những sự thỏa thuận tự nguyện không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội của các bên.

Hoạt động áp dụng pháp luật về căn cứ cho ly hôn đòi hỏi phải tuân theo những trình tự thủ tục chặt chẽ. Điều này được thể hiện rõ trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Từ khâu nhận đơn, xử lý đơn, thụ lý vụ án và giải quyết đều phải tuân theo những quy định về thời hạn, thời hiệu và những yêu cầu cụ thể khác như: cung cấp tài liệu, chứng cứ, bổ sung các giấy tờ cần thiết theo yêu cầu của tòa án. Trong đó nếu các bên đương sự không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể trả đơn (nếu chưa thụ lý) hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Ví dụ như trường hợp hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận giấy báo nộp tiền tạm ứng án phí mà đương sự không nộp biên lai thu tiền cho Tòa án thì Tòa án sẽ trả lại đơn cho người khởi kiện. Hay nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Đặc biệt áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn đòi hỏi tính sáng tạo cao. Bởi vì các quy định của pháp luật về căn cứ ly hôn mang tính chất chung chung, khái quát, song các trường hợp xin ly hôn trong thực tế lại rất đa dạng, phong phú nên đòi hỏi mỗi Thẩm phán khi giải quyết cho ly hôn phải nhìn

nhận, xem xét đánh giá đúng bản chất của mối quan hệ hôn nhân để có thể đưa ra phán quyết đúng đắn, đảm bảo quyền lợi của vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình.

1.3. CĂN CỨ LY HÔN QUA CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.3.1. Căn cứ ly hôn trong pháp luật thời phong kiến

Dưới chế độ phong kiến, do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng trọng nam khinh nữ, bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông theo quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, pháp luật bảo vệ đặc quyền của người đàn ông trong gia đình, còn phụ nữ phải sống theo đạo nghĩa “Tam tòng tứ đức”. Chế độ đa thê với những quy định hà khắc về ly hôn đã bóp méo bản chất của một cuộc hôn nhân chân chính, khiến hôn nhân trở thành gông cùm trói buộc người phụ nữ. Họ không được quyền tự quyết bất kỳ điều gì ngay cả việc bảo vệ hạnh phúc riêng của mình.

Năm 1483, vua Lê Thánh Tông đã xây dựng và ban hành bộ “Quốc triều hình luật” hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức. Quốc triều hình luật (QTHL) là bộ luật được nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài đánh giá cao về nhiều phương diện trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đây là bộ luật chịu ảnh hưởng của Nho giáo, ra đời trong thời điểm Nho giáo có phạm vi ảnh hưởng sâu sắc nhất.

Trong hôn nhân, pháp luật phong kiến thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Luật quy định các trường hợp chấm dứt hôn nhân: ly hôn, một trong hai người chết.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Trường hợp chấm dứt hôn nhân do một trong hai người chết, quan hệ hôn nhân chỉ thực sự chấm dứt ngay nếu người chết là người vợ, còn nếu là người chồng chết thì nó chỉ chấm dứt sau khi mãn tang. Quy định này được quy định một cách gián tiếp trong các Điều 2 và Điều 320 của QTHL. Đây là

quy định thể hiện rõ nhất về tư tưởng trọng nam khinh nữ của pháp luật phong kiến thời bấy giờ. Cùng quy định về căn cứ chấm dứt hôn nhân, nhưng khi áp dụng lại có sự phân biệt giữa vợ và chồng.

Căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng - 4

Pháp luật phong kiến quy định quan hệ hôn nhân có thể chấm dứt với các điều kiện nhất định, có thể phân chia thành các nhóm căn cứ sau:

a. Trường hợp ly hôn do lỗi của người vợ

Trong việc ly hôn, pháp luật quy định các duyên cớ ly hôn là do lỗi của vợ hoặc chồng. Những lỗi này là riêng biệt của vợ chồng chứ không phải là lỗi chung của cả hai vợ chồng, trong đó các lỗi của người vợ là chủ yếu. Khi người vợ phạm một trong bảy điều thất xuất thì người chồng bắt buộc phải bỏ vợ. Nếu người chồng không bỏ thì pháp luật cũng buộc họ phải bỏ và đồng thời người chồng còn bị xử biếm. Các duyên cớ để người chồng bỏ vợ được quy định tại Điều 310 QTHL: “Vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều nghĩa tuyệt (như thất xuất) mà người chồng chịu giấu không bỏ thì bị xử tội biếm, tùy theo nặng nhẹ”. Tuy nhiên không có điều luật nào trong QTHL giải thích về thất xuất, nhưng tại đoạn 164 Hồng Đức thiện chính thư thì thất xuất được hiểu như sau:

- Vô tử: không có con, không có con là bất hiếu với cha mẹ nên phải bỏ vợ.

- Ghen tuông: ghen tuông cũng là một duyên cớ người chồng phải bỏ vợ vì người đàn ông được quyền lấy nhiều vợ, sự ghen tuông gây nên sự bại hoại trật tự tư gia trong đại gia đình.

- Dâm dật: người vợ có mọi hành vi lẳng lơ, dâm đãng thì người chồng buộc phải bỏ vợ, vì hành vi này làm bại hoại trật tự gia đình phong kiến.

- Lắm lời: sự lắm lời của người vợ có thể gây nên sự bất hòa giữa những người thân thuộc trong gia đình. Lắm lời cũng là một thái độ của người đàn bà phạm vào “tứ đức” (Công – dung – ngôn- hạnh) mà người đàn bà kiểu mẫu phải có trong xã hội phong kiến.

- Trộm cắp: theo quan niệm cổ, các con sống trong gia đình không ai được có tài sản, tất cả tài sản đều thuộc người gia trưởng. Người vợ phạm điều này mà người chồng không bỏ thì vạ lây đến chồng.

Các quy định trên của pháp luật nhà Lê cho thấy nhà làm luật đã đặt lợi ích, danh dự của gia đình lên trên lợi ích của cá nhân vợ chồng. Trong các trường hợp này người chồng không có quyền tự lựa chọn một cách xử sự nào khác ngoài việc bắt buộc phải bỏ vợ, mặc dù người chồng không muốn.

Tại Hoàng Việt Luật Lệ (HVLL) của nhà Nguyễn, Điều 108 cũng quy định tương tự về bảy trường hợp thất xuất như trong QTHL. Tuy nhiên, người chồng được quyết định xem có nên bỏ vợ hay không, luật chỉ phạt người chồng 80 trượng khi nào người vợ không phạm bảy trường hợp thất xuất mà người chồng tự tiện rẫy vợ.

Theo Điều 108 thì nghĩa tuyệt có nghĩa là đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng và là quy định được sao chép từ luật nhà Thanh (Trung Quốc). Tuy không có điều luật nào chú thích rõ ràng về nghĩa tuyệt nhưng có thể nhận thấy một số trường hợp nghĩa tuyệt có thể do lỗi của người vợ (mưu sát chồng), có thể do lỗi của người chồng (chồng bán vợ làm nô lệ, người chồng bán vợ cho người khác làm nô lệ, người chồng cho thuê vợ hay cầm vợ), hoặc có thể do lỗi của cả hai vợ chồng (người chồng đem vợ thông gian gả bán cho gian phu).

Có thể nhận thấy QTHL “đã giản dị hóa luật Trung Hoa bằng cách đồng hóa các trường hợp thất xuất cổ điển với các trường hợp nghĩa tuyệt. Quy định như vậy luật Hồng Đức đã thu hẹp lại nhiều những trường hợp bỏ vợ có tính cách bắt buộc và đó cũng là biện pháp bảo vệ quyền lợi cho người vợ” [16].

b. Trường hợp ly hôn do lỗi của người chồng

Song song với quyền ly hôn của người chồng, trong một chừng mực

nhất định pháp luật thời kỳ phong kiến cũng cho phép người vợ có quyền yêu cầu ly hôn với người chồng, nếu người chồng vi phạm nghĩa vụ thiết yếu của hôn nhân như nghĩa vụ đồng cư và nghĩa vụ phù trợ.

Pháp luật thời kỳ Hồng Đức cũng như pháp luật thời kỳ Gia Long đã trừng phạt nghiêm ngặt những trường hợp chồng bỏ lửng vợ, bỏ nhà ra đi hay đi trốn. Điều 308 QTHL quy định: “Phàm người chồng đã bỏ người vợ năm tháng không đi lại thì mất vợ. Nếu người vợ đã có con thì cho hạn một năm. Vì việc quan phải đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì xử tội biếm”. Điều này thể hiện địa vị tương đối bình đẳng giữa vợ chồng. Quy định này cũng nhằm bảo vệ quyền lợi của gia đình. Tương tự như vậy, Điều 100 HVLL cũng cho phép người vợ được ly hôn khi người chồng không đi lại với vợ phải là ba năm. Trong đời sống gia đình, vợ chồng phải có sự quan tâm chăm sóc nhau cả về thể chất và tinh thần. Việc người chồng bở lửng vợ coi như không còn tình nghĩa vợ chồng nữa, hơn nữa khoảng thời gian ba năm người chồng không đi lại với vợ là quá dài, điều đó gây thiệt hại cho người vợ. Như vậy, so với Bộ luật nhà Lê thì Bộ luật nhà Nguyễn là sự thụt lùi trong việc bảo vệ quyền lợi pháp lý của người vợ [18].

Người vợ được phép ly hôn người chồng trong trường hợp chồng mắng nhiếc cha mẹ vợ. Theo Điều 333 QTHL thì: “Nếu con rể lấy chuyện thị phi mà mắng nhiếc cha mẹ vợ, đem việc thưa quan sẽ cho ly dị vợ”. Trường hợp này người vợ phải thưa quan và nếu quan cho phép thì mới được ly dị.

Quy định về quyền ly hôn của người vợ nếu người chồng vi phạm các nghĩa vụ thiết yếu của hôn nhân là điểm độc đáo và tiến bộ của pháp luật nhà Lê “Quy định này không có trong bất kỳ bộ luật nào của Trung Quốc, nó chứng minh địa vị tương đối bình đẳng giữa vợ chồng trong gia đình” [18].

c. Trường hợp ly hôn do vi phạm điều các điều kiện cấm kết hôn

Hôn nhân vi phạm các điều kiện kết hôn là hôn nhân trái pháp luật và buộc phải ly dị. Đó là các trường hợp sau:

- Kết hôn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng (Điều 317 QTHL).

- Kết hôn khi ông bà, cha mẹ đang bị giam cầm tù tội (Điều 318 QTHL).

- Lấy người trong họ (Điều 319 QTHL).

- Quan lại và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ, dù là vợ cả hay vợ lẽ (Điều 323 QTHL).

- Lấy vợ góa của anh, em, thầy học (Điều 324 QTHL).

- Con của quan ty kết hôn với con của tù trưởng địa phương nơi biên giới (Điều 334 QTHL).

Việc cấm kết hôn trong pháp luật nhà Lê được quy định xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như: vì luân thường đạo lý như ở trường hợp cấm kết hôn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng, vì thuần phong mĩ tục như trường hợp cấm lấy vợ góa của anh, em, thầy học. Hay vì lý do sức khỏe nòi giống mà cấm lấy người trong họ...

1.3.2. Căn cứ ly hôn trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc

Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, với mục đích phục vụ cho chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã chia cắt nước ta thành ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ với tổ chức bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật riêng. Theo sự chia cắt đó, ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình.

Ở Bắc kỳ áp dụng Bộ luật dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc kỳ).

Ở Trung kỳ áp dụng Bộ luật dân sự năm 1936 (Dân luật trung kỳ).

Ở Nam kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (Dân luật giản yếu Nam kỳ).

Luật pháp thời kỳ này chịu ảnh hưởng nhiều từ tư tưởng làm luật của các nước phương tây, đặc biệt là Pháp. Sự giao lưu văn hóa và hội nhập dẫn đến những yêu cầu thay đổi trong đời sống hôn nhân. Quyền bình đẳng được tôn trọng hơn so với pháp luật thời kỳ trước, phụ nữ có quyền được học hành,

được ly hôn, xin con nuôi, có tài sản riêng...Hôn nhân lúc này mang màu sắc của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề ly hôn chủ yếu được xây dựng trên nền tảng Nho giáo phong kiến trước đây và dựa theo Dân luật của Pháp năm 1804 với quan điểm thuần túy coi hôn nhân là một loại hợp đồng và nó sẽ kết thúc nếu một trong hai bên phạm vào các yếu tố lỗi do luật quy định.

Pháp luật thời kỳ Pháp thuộc quy định chỉ có Tòa án mới có quyền cho vợ chồng ly hôn khi có đủ các duyên cớ cho ly hôn mà pháp luật đã quy định. Căn cứ ly hôn được quy định dựa vào lỗi của chồng hoặc của vợ.

Người chồng có thể xin ly hôn với người vợ với các duyên cớ được quy định tại các Điều 118 (DLBK) và Điều 117 (DLTK), đó là các duyên cớ sau:

- Vì vợ phạm gian;

- Vợ bỏ nhà ra đi, tuy đã buộc phải trở về mà không trở về;

- Vì vợ thứ đánh chửi bạo hành vợ chính.

Quyền ly hôn được thừa nhận cho cả vợ và chồng. Việc ly hôn do Tòa án quyết định trong những trường hợp được Luật dự liệu. Việc dự liệu các tình huống là cơ sở để quy định căn cứ ly hôn mang tính chất liệt kê. Tuy nhiên, nó vẫn được xây dựng dựa trên xuất phát điểm về quyền được bình đẳng của cả nam và nữ.

Bên cạnh đó sự quy định các duyên cớ ly hôn do lỗi của người vợ, Điều 119 (DLBK) và Điều 118 (DLTK) còn quy định các duyên cớ ly hôn do lỗi của người chồng. Người vợ có thể xin ly hôn với người chồng vì các lý do sau:

- Chồng không làm những nghĩa vụ cam kết khi kết hôn là phải nuôi nấng vợ con tùy theo kế sinh nhai;

- Chồng bỏ nhà đi quá hai năm không có lý do chính đáng và không lo liệu việc nuôi nấng vợ con;

- Không có lý do chính đáng mà chồng đuổi vợ ra khỏi nhà mình;

- Chồng làm trái trật tự vợ chính vợ thứ.

Ngoài việc quy định duyên cớ ly hôn do lỗi của vợ hoặc của chồng, pháp luật còn ghi nhận một số duyên cớ chung để cả hai vợ chồng có thể xin ly hôn. Điều 120 (DLBK) và Điều 119 (DLTK) có quy định như sau:

- Bên nọ hà khắc, hành hạ, chửi rủa thậm tệ đối với bên kia, hoặc với tổ phụ bên kia;

- Vì một bên can án trọng tội;

- Vì một bên vô hành làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia không thể ở chung được;

Hành vi ngoại tình cũng được coi là một lý do - cơ sở để yêu cầu ly hôn. Tại Nam kỳ áp dụng quy định của tập DLGYNK (căn cứ ly hôn được lấy nguyên mẫu từ Bộ Luật dân sự Napoleon và thừa kế Hoàng việt Luật lệ) quy định căn cứ ly hôn. Chế độ ly hôn trong DLGYNK vẫn áp dụng tam bất khứ để hạn chế quy định ly hôn của người chồng.

1.3.3. Căn cứ ly hôn quy định trong pháp luật Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập ra đời vào năm 1946. Trong Hiến pháp 1946, lần đầu tiên quyền bình đẳng giữa nam và nữ được xác lập: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9 Hiến pháp 1946).

Hôn nhân trên nguyên tắc bình đẳng, một vợ một chồng và chế định về ly hôn của pháp luật thời kỳ này là một trong những biện pháp giải phóng phụ nữ khỏi sự kìm hãm của chế độ gia đình gia trưởng thời phong kiến. Văn bản pháp lý đầu tiên chứa đựng những quy tắc mới về ly hôn là Sắc lệnh 159 - SL ngày 17.11.1950 do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành. Tại Điều 2 của Sắc lệnh quy định những duyên cớ ly hôn như sau:

- Một bên ngoại tình;

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 23/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí