đã tàn nhẫn, đã khốn nạn đến thế ư? Trên mắt y một chút nước mắt bỗng ứa ra. Trơ trơ trước cái chết của một người thân, y đã khóc cho chính cái chết của tâm hồn mình” [3, 713].
Hơn cả sự ích kỉ, cái đói và miếng ăn còn biến người ta trở thành những kẻ hay ghen ghét, đố kị. Con người trong cơn đói khát chỉ biết nghĩ cho bản thân, cho quyền lợi của riêng mình và tiến thêm một bước trong quá trình tha hóa nhân cách là người ta không bao giờ muốn người khác hơn mình. Khi thấy ai “sung sướng” hơn họ nảy sinh tâm lí phẫn uất và ghen với sự sung sướng ấy. Họ tìm mọi cách kéo nhau xuống. Người này hãm người kia sao cho họ kém mình hoặc cùng lắm bằng mình. Nét tâm lí này khá phổ biến trong các nhân vật của Nam Cao. Nhưng được xây dựng thành công nhất chính là hình ảnh bà của Ngạn “Chao ôi, chao ôi, bà khổ suốt một đời ki cóp từng đồng trinh để bây giờ chúng nó sung sướng, chúng sướng quá. Chúng không biết rằng mẹ chúng đã khổ suốt một đời hay sao. Thuốc độc cứ thấm dần, thấm dần. Trước còn ngấm ngầm, nhưng sau càng ngấm mạnh. Và đến lúc cái bệnh ghét phá tung ra ngoài…” [3, 94]. Nam Cao gọi sự đố kị, ghen ghét là “thuốc độc”, là “chất độc”. Chất độc không ở đâu xa lạ “Chất độc ở ngay trong sự sống”, thấm vào huyết quản của từng người, vùi dập những gì tốt đẹp, kích thích những gì xấu xa, nhỏ nhen trong con người.
Người trí thức vốn khinh thường những tính toán chi li về mặt vật chất. Họ luôn khinh bỉ cái thói bủn xỉn của đàn bà, đụng một cái gì cũng tính ra tiền - ánh trăng cũng chỉ để đỡ tốn hai xu dầu lạc. Họ tự hỏi tại sao những con người ấy cứ suốt đời tính toán. Vậy mà khi sa vào cái bẫy của cuộc đời giăng lưới khắp nơi, họ mơ hồ nhận ra nhân cách của họ cũng thay đổi, họ cũng là một con người hay tính toán. Anh trí thức Điền trong Trăng sáng đang vẩn vơ xây mộng thơ trên bầu trời nhiều sao, anh thấy nó giống một cánh đồng bao la. Rồi bỗng thoắt một cái anh lại chỉ mong có một khoảng đất bé thôi để mình lo sinh kế. Nhưng còn có những tính toán tệ hại hơn nhiều. Điền bắt đầu tính “hắn sẽ lĩnh được ba mươi đồng bạc, thuốc cái Hường độ ba đồng, với một đồng tiền ăn là bốn, tiền thuốc thằng Chuyên bảy đồng còn khất đấy, bốn với bảy, mười một… Còn bao nhiêu thì đóng họ, đưa lãi nợ
nữa là hết xoẳn… Hắn lại xót xa một lần nữa, mười đồng bạc bỏ ra cho hai đứa con uống thuốc” [3, 378]. Thiết nghĩ Điền xót xa cũng đúng, cả tháng trời trông chờ được ba mươi đồng bạc mà thuốc thang đã chiếm một phần ba, lấy gì trang trải trong tháng còn lại. Nhưng cái tai hại của việc tính toán này là ở chỗ con bệnh, con đau mà lại tính từng đồng mua thuốc. Thế thì ai không có quyền hỏi Điền rằng: tình thâm phụ tử và lương tâm của anh, anh để ở đâu?
Ngòi bút Nam Cao nghiêm khắc đến mức tàn nhẫn khi nói về sự đe dọa nhân phẩm con người. Tâm hồn của họ chao đảo, sứt mẻ, hoen gỉ đi dưới tác động từ nhiều phía của cuộc sống. Chẳng hạn như sự bẳn gắt, kèn cựa, nghĩ xấu, nói xấu nhau. Đọc tiểu thuyết Sống mòn, lúc nào ta cũng thấy những nhân vật trong đó nghĩ xấu, nói xấu nhau. Hơi đụng một tí gì là họ “móc họng” nhau, bới móc từng cái cỏn con. Đặc biệt những vấn đề quanh miếng ăn. Khi thấy trong bữa ăn mọi thứ đều rất ít, Thứ và San nghĩ Oanh bủn xỉn muốn đày đọa họ nên “đong thứ gạo xấu nhất, hà tiện từng tí nước mắm trở đi” [1, 569] để báo thù, họ ngang bướng đòi chia với Oanh cái quyền được ở gác nhà trường và Oanh muốn đuổi họ đi. Và cứ như thế một đôi khi họ đã trả thù Oanh, trả thù sự nhỏ nhen, bằng một sự nhỏ nhen, tàn nhẫn không kém “Một lần mới ăn xong một bát cơm đã thấy hết nhẵn cả thức ăn, San cầm lấy cái đĩa đựng đậu kho chỉ còn cái đĩa không với một tí nước và vài cái lá hành, đổ cơm vào trộn đi, trộn lại sạch như lau. Trộn xong y trút vào bát cơm của y, thong thả và cẩn thận gạt từng hạt cơm dính trong lòng đĩa xuống…” [3, 570]. Thứ là một con người không có những tính xấu như San nhưng hôm nay y cũng hành động thiếu tư cách, xấu xa, bỉ ổi không kém gì San: “Y sẻ một ít cơm vào cái đĩa đã chẳng còn một chút mắm muối nào vờ trộn lại…” [3, 570]. Qua một vài chi tiết ta thấy cái đói và miếng ăn là một cái gông nặng nề đè anh tiểu tư sản xuống sát đất khiến tâm trí của họ cứ bị hút chặt vào bữa ăn hàng ngày. Họ tức tối, “gầm ghè” nhau xung quanh một mâm cơm để rồi sau đó cảm thấy nhục nhã, ê chề cho chính cái tâm địa nhỏ nhen, hèn hạ của mình. Toàn bộ tiểu thuyết Sống mòn là tiếng kêu cứu thảm thương: Hãy cứu lấy nhân cách đang bị hủy diệt, những linh hồn đang héo hắt chết mòn, chết mỏi vì miếng ăn.
Thật bàng hoàng và đau xót biết bao khi bao nhiêu ước vọng thương yêu, niềm tin và hạnh phúc của con người bị đè trĩu xuống, vùi lấp sau những lo toan vật chất, suy tính nhỏ nhen vì miếng cơm manh áo. Từ nơi phố thị ồn ào, náo nhiệt cho đến làng Vũ Đại kiệt quệ, xác xơ sự buồn đau, ích kỉ, giả dối đang dần nhuộm đen những tâm hồn trong trẻo, khiến cho những trái tim trở nên tê liệt, cằn cỗi. Trong cái thế giới u mê tăm tối ấy, nhân vật của Nam Cao bị chà đạp, hủy hoại về cả nhân cách, nhân phẩm. Miếng ăn trở thành nỗi ám ảnh lớn. Nỗi vinh nhục của miếng ăn và cách tìm được miếng ăn trở thành nhân tố quan trọng quyết định đến giá trị của một con người.
Cái đói và miếng ăn đã xô đẩy bao nhiêu số phận trượt trên cái dốc tha hóa theo nhiều kiểu như một quy luật khó tránh khỏi. Tuy nhiên, bên cạnh một số nhân vật trước thử thách của cái đói và miếng ăn đã không giữ được nhân cách thì ta còn thấy một số nhân vật tuy cũng chịu sự tác động của cái đói nhưng nhân cách của họ vẫn trong suốt, lấp lánh giữa cõi đời đầy tủi cực, đắng cay. Đó là trường hợp của lão Hạc, anh đĩ Chuột…
Có thể bạn quan tâm!
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 - 6
- Cái Đói Và Miếng Ăn - Thử Thách Ghê Gớm Của Người Trí Thức
- Tha Hóa Nhân Cách - Vấn Đề Nhức Nhối Trong Sáng Tác Nam Cao
- Khát Vọng Nhân Văn Của Nam Cao Và Nguyên Hồng Qua Vấn Đề Cái Đói
- Tình Huống Đói Khát Cùng Đường, Miếng Ăn Là Miếng Nhục
- Ngôn Ngữ Đối Thoại Gần Với Tiếng Nói Quần Chúng
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Đời người có lẽ điều đáng sợ nhất là cái chết. Vì thế, có nhiều kẻ phải bán dần sự sống đi để giữ cho mình khỏi chết. Thế nhưng anh đĩ Chuột, lão Hạc đem sinh mệnh của mình ra để đánh đổi điều gì? Anh đĩ Chuột thắt cổ tự tử là để muốn trút đi gánh nặng cho vợ con anh. Trong khi gia đình anh lâm vào cảnh cùng quẫn thê thảm, vợ con anh phải ăn cám để nhường cơm cho anh. Anh đã chọn cái chết để may ra vợ con anh đỡ khổ hơn. Tuy giải pháp anh chọn không phải là tích cực nhưng có thể thấy cái chết ấy biểu hiện cho nhân phẩm cao đẹp của một người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con.
Cũng như thế, lão Hạc đã kết thúc mạng sống của mình bằng cái chết không kém phần thê thảm. Cuộc đời và cái chết của lão nhắc ta nhớ đến cuộc đời và cái chết của bà cái Tí. Hai người có hoàn cảnh khá giống nhau: già yếu, cô độc, bệnh tật, không còn đủ sức để kiếm ra cái ăn. Hai người đều chết, nhưng mỗi người chết theo mỗi cách khác nhau, có ý nghĩa khác nhau. Nếu như hoàn cảnh sống cơ cực, đói khát đã dần dần bào mòn, hủy diệt đi cái phần nhân cách, nhân phẩm của bà cái
Tí thì ở lão Hạc phần nhân cách của lão lại được tỏa sáng. Mặc dù vẫn còn ít tiền và tài sản: cái mảnh vườn. Nhưng vì thương con và tự trọng lão đã không đụng đến. Lão còn kiên quyết từ chối tất cả những gì mà ông giáo cho lão. Khi bị cái đói dồn đến chân tường, không muốn kéo dài kiếp người đầy tủi nhục của mình vì sợ rằng sẽ trở nên mất nhân cách, lão đã ăn bả chó để được hóa kiếp.
Theo dõi cuộc đời của anh đĩ Chuột và lão Hạc chúng ta cảm phục vì họ đã giữ được nhân phẩm, nhân tính nhưng cũng lại thấy thật xót xa, nghẹn ngào. Số phận những con người ấy mới đau đớn, bi kịch làm sao! Rốt cuộc, không bị tha hóa thì họ cũng rơi vào con đường bế tắc, bần cùng, tự sát.
Chỉ ra quy luật bần cùng, tha hóa vì đói rách, nghèo hèn, các tác phẩm Nam Cao hầu hết đều thấm nhuần tư tưởng nhân văn, nhân đạo. Phản ánh hiện thực này, Nam Cao đã tự khẳng định sự sắc sảo của một cây bút bậc thầy. Trong dòng văn học hiện thực phê phán cùng thời Nam Cao, không một tác giả nào đề cập đến ảnh hưởng của cái đói, của miếng ăn lên nhân cách, tâm hồn con người sâu sắc đến vậy.
2.3. Cái đói trong trang văn của Nguyên Hồng
Có một thực tế là cái đói đã đẩy biết bao nhân vật của Nguyên Hồng rơi vào tình trạng sống dở chết dở. Mỗi nhân vật, mỗi câu chuyện trong tác phẩm Nguyên Hồng là một số phận, một cảnh đời đau thương, cay đắng, bi thảm.
2.3.1. Những nạn nhân khốn khổ của cái đói
Hiện thực xã hội mà nhà văn phản ánh vô cùng đen tối. Ở đó có biết bao người là nạn nhân khốn khổ của cái đói. Cuộc đời họ luôn gặp những tai ương bất hạnh. Cuộc sống tối tăm, nghèo khổ đến nỗi miếng cơm manh áo đã trở thành nhu cầu bức thiết nhất và cũng khó khăn cực nhọc nhất mới kiếm được. Phần lớn họ ở trong tình trạnh kiệt quệ. Mỗi người một cảnh ngộ song tất cả họ đều rơi vào sự quẫn bách.
Đó là những người nông dân của những miền quê luôn bị lụt lội, hạn hán hay nạn đói và bệnh dịch tàn phá. Họ phải bỏ ruộng vườn ra thành thị kiếm miếng cơm manh áo, lao động vất vả nhưng vẫn không đủ ăn. “Sau mấy năm lụt lội, đói khát dịch tễ liên tiếp họ hầu như đã bán nốt miếng đất cuối cùng để gỡ nợ, để chạy kiện,
để thoát vạ rượu, vạ cướp tiêu sưng, để khỏi nhìn những cảnh đau tủi uất ức mà đi tha phương cầu thực”. Họ là nạn nhân của một xã hội mà công lý chỉ thuộc về bọn nhà giàu và giai cấp thống trị. Cái xã hội kim tiền thời đó đã biến họ thành những thứ hàng hóa, ở nông thôn họ là những người có lí lịch dù là xấu, là khổ nhưng nay ra thành thị họ trở thành đám người không tên không tuổi. Hàng ngày họ phải lang thang đi kiếm ăn trong những điều kiện sống hết sức khắc nghiệt, vô tình của những thành phố tư sản. Trước hết họ là những người làm nghề phu phen, tạp dịch nặng nề như: phu bến tàu, đội than, đội đá, đào đất, bốc vác hàng hóa, đun goòng, làm đường xá….. Họ lao động suốt ngày mà vẫn đói rách, lam lũ. Cái đói cứ đeo đẳng họ từ ngày này qua tháng nọ khiến cho cuộc sống của họ trở nên tù túng. Họ không nghĩ được gì khác ngoài những chuyện vụn vặt, tầm thường về miếng cơm, manh áo.
Sự đói nghèo, lam lũ như một thứ tai hoạ đã bủa vây, bám riết vào cuộc đời của những con người nơi đây và đó cũng chính là nguyên nhân đẩy họ tới những thảm hoạ xót xa. Vì đàn con thơ nheo nhóc, vì những món tiền nợ chưa trả được mà chị Năng (Sông máu) đã phải giữa đêm khuya một mình vật lộn, đương đầu với sông nước trong cơn bão to, những cơn gió mạnh thổi gãy cột buồm và làn nước mưa dày đặc cứ quất thẳng vào mặt. Cảnh vật lộn kiếm miếng ăn bằng nghề chở hàng lậu trên sông giữa thời tiết khắc nghiệt, giữa sự kiểm soát gắt gao và tàn nhẫn của bọn Tây đoan, sẽ là mạo hiểm, liều lĩnh với số phận bởi cái chết liền kề. Dù biết sẽ gặp nguy hiểm nhưng không thể làm khác được, chị đành nhắm mắt đưa chân, đương đầu với sự rình rập của thần chết.
Biết bao nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng vì đói nghèo mà phải đầu tắt mặt tối, lúc nào cũng lam lũ, vất vả. Những thân hình khẳng khiu, gầy rạc của họ phải gánh vác những trách nhiệm nặng nề, lớn lao: nuôi sống cả gia đình, chăm sóc đàn con thơ dại và cả những người chồng tật nguyền ốm yếu. Sự đói nghèo đã vùi dập mọi ước mơ xây dựng hạnh phúc lứa đôi thậm chí còn đẩy người phụ nữ tới những cái chết thương tâm.
Nhân vật Mũn trong Đây, bóng tối là một người phụ nữ như thế. Từ thưở ấu thơ Mũn đã phải sống cảnh cơ cực, côi cút: “Mồ côi cha mẹ, phải đi dắt thuê cho
một bà lão ăn mày, chẳng bao giờ biết được một miếng ngon” [30,130]. Vì thế khi được ăn những “miếng thịt lẫn lộn cơm và nước dãi” của Nhân – người bạn nghèo thì Mũn đã rất cảm động và sung sướng. Cho đến khi làm vợ, làm mẹ Mũn vẫn tiếp tục phải sống cuộc đời nghèo túng ấy. Nhưng Mũn không hề kêu ca, nàng một lòng nhẫn nhịn, cắn răng chịu đựng mọi vất vả, khổ cực, ức hiếp gặp phải ở chợ đời để khi về nhà lại hết lòng an ủi vỗ về để chồng quên hẳn sự đau đớn đui mù. Nàng dồn hết sức lực để kiếm sống, gồng mình lên “như một tấm lá chắn đỡ lấy trăm nghìn mũi tên sắc nhọn để che chở cho chồng con được toàn vẹn” [30,138]. Thế nhưng cuộc đời tàn nhẫn, lắm thói ức hiếp, lắm cảnh xô bồ, để tồn tại nàng phải trốn vé, phải chịu phạt, phải tranh cướp khách với người ta. Và vì miếng ăn cho chồng con mà Mũn đã phải chết: “Tàu đã súp-lê lần thứ ba, đã kéo neo, gần chạy rồi mà Mũn còn tranh nhau bán bánh. Người bán cao lâu ở tàu thấy thế bèn ẩy Mũn ra ngoài. Giữa lúc đó một bọn soát vé chợ đương hò hét gọi những người bán hàng khác. Mũn giùng giằng, không muốn lên bờ. Người bán hàng ở tàu cáu tiết, cầm cả mâm bánh liệng xuống phà, Mũn phải vội nhảy theo, trượt chân nàng ngã nhào xuống sông. Nước chảy mạnh, người ta tốn công tìm để vớt mà chưa thấy xác” [30,138].. Một cái chết đầy đau đớn, xót xa, tủi cực trong cuộc vật lộn kiếm cơm quá nhọc nhằn. Giờ đây tấm lá chắn duy nhất của cái gia đình nhỏ bé kia đã không còn, đẩy người chồng đui mù và những đứa con nheo nhóc tội nghiệp của nàng ra đường. Tác phẩm kết thúc đã để lại bao xót xa, cay đắng trong lòng người đọc. Số phận con người trong thời buổi đói kém thật là thê thảm.
Cái đói dẫn đến cái chết, biết bao nhân vật của Nguyên Hồng chết vì đói. Truyện ngắnĐi để lại cho người đọc một cảm nhận ghê rợn về cái đói. Truyện viết về một đám đông những người dân quê bị nạn đói xua đuổi ra khỏi quê hương. Họ kéo nhau đi tới các thành phố hi vọng kiếm được việc làm và miếng ăn. Dọc đường họ đi qua bao xác chết: “Họ chết ngay bên vệ đường, ngay bờ cỏ, ngay mé ruộng, ngay trước các quán, chẳng thấy ai chôn cất, khóc lóc. Họ chết như rạ ấy” [30,597].. Nhưng thương tâm nhất có lẽ là cái chết của một người đàn bà nằm ưỡn ngực: “Ngực đã khô cứng đen cóc đen cáy. Ở cái đầu vú to thây lẩy một đứa bé vẫn
cứ rúc vào bú, miệng nó nhay nhay, một tay nó luồn vào nách, một tay nó vân vê cái bên vú lép hơn. Cái núm thịt chết khô căng lên ấy đã được đứa bé tưởng là còn sữa, như người mẹ đã lại được no, nên đứa bé lại cố nún ụt ịt một cách hăm hở và lại vân vê một cách sung sướng như thế” [30,599]. Cái đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mệnh của người mẹ. Rồi đây số phận của đứa bé sẽ ra sao khi nguồn nuôi dưỡng đã không còn, miệng nó cứ nhay nhay vào vú mẹ, nó tìm gì đây ở cái xác chết khô cứng ấy của mẹ nó? Cái chết của người mẹ là sự mở đầu cho cái chết thương tâm tiếp theo của đứa bé. Khi viết về những cái chết do cái đói gây ra Nguyên Hồng đã bộc lộ một niềm xót thương vô hạn và hơn thế, một nỗi phẫn uất mạnh mẽ đòi quyền sống cho những sinh mệnh đáng thương vô tội.
Trong xã hội thực dân phong kiến người phụ nữ phải làm việc cật lực, vắt kiệt sức mình ra để kiếm tiền nuôi gia đình, nuôi đàn con. Cuộc sống lam lũ kéo dài đã bòn rút sức lực của họ, đã làm cạn kiệt dòng sữa của họ nên họ phải nuôi con mà không có sữa cho con bú. Những đứa trẻ khát sữa từ giã cõi đời trong sự đau đớn xé lòng của những người mẹ nghèo, bất lực như Cúc trong truyện ngắn “Trước xác chết”. Hình ảnh những đứa trẻ chết vì đói là những hình ảnh trăn trở, nhói buốt tận tim gan nhà văn. Về cái hiện thực đau xót này, Nguyên Hồng đã có những trang văn thống thiết lên tiếng kêu gọi cấp sữa cho những trẻ thơ đói sữa. Ông đã từng gào lên, thét lên trong tác phẩm của mình những lời đau đớn: “Phải đem sữa lại cho những bà mẹ nhiều con dại ở các nước chiến tranh tàn phá…. Phải trả sữa lại cho những cái miệng bé nhỏ hà rộng, lưỡi gần cứng đó, dưới những bầu vú lép….”
“ Kìa! Những bàn tay bé nhỏ đang vẫy các bạn, những con mắt lờ đờ ướt át đương van lơn các bạn, những cặp môi đỏ mọng đã héo quắt lại”.
“Sữa! Sữa!
Người ta đang chờ đợi ở một thi sĩ một bài thơ, ở một nhà văn một trang truyện kêu đòi sữa cho trẻ con” [30,342].
Đây là lời kêu gọi góp phần thức tỉnh những tấm lòng nhân ái, thức tỉnh tinh thần đấu tranh cho cuộc sống của những trẻ em nghèo. Đồng thời đó còn là một tiếng kêu thống thiết cho kiếp người cùng khổ trong đó có số phận của trẻ em; là lời
tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến đã cướp đi quyền được sống, được chăm sóc của trẻ em.
Xuất phát từ tuổi thơ nhiều bất hạnh nhà văn đồng cảm sâu sắc với những thân phận bé nhỏ đó, ông lên tiếng: phải cứu lấy tuổi thơ, cứu lấy những sinh linh vô tội. Tất cả mọi người trong xã hội đều phải có trách nhiệm với trẻ em bởi trẻ em chính là tương lai của dân tộc. Tiếng gọi khẩn khiết ấy vang lên qua từng tác phẩm của nhà văn. Đây cũng là một đóng góp đáng quý của Nguyên Hồng trong việc kêu gọi xóa đói cho trẻ em nghèo.
Cái đói chính là một thảm họa mà con người trong xã hội đương thời đang phải gánh chịu. Trong số những nhân vật đau khổ của Nguyên Hồng bị cái đói giày vò thì còn có cả những cô gái quê phải gánh chịu nỗi khổ đó. Tuy không trực tiếp bị cái đói đe dọa đến tính mạng nhưng vì không muốn sống cuộc đời đói khát mà biết bao cô gái đã nhắm mắt đưa chân lấy những ông chồng mà họ không yêu để có cơ may đổi đời. Chẳng hạn như cô Tý trong truyện ngắn Nhà bố Nấu. Cô muốn tìm một cảnh nhàn hạ sung sướng “lấy ai cũng là chồng... Tý không muốn ước ao mãi cái ao ước chỉ được ngày hai bữa ăn chắc bụng, chỉ được khỏi rách rưới, rét mướt” [30,272].
Mỗi số phận trong truyện ngắn của Nguyên Hồng là một kiếp người khổ sở, một kẻ chịu nạn. Những con người trở nên điên dại như mẹ Bồng (Ngòi lửa) hoặc trở nên hung dữ thú vật, hung dữ như Mão Chột (Người mẹ không con), lão Đen (Bố con lão Đen)…. đều có căn nguyên từ thực trạng xã hội tù đọng, bế tắc, quẩn quanh. Bởi cuộc sống quá nghèo đói nên hạnh phúc của con người cũng chỉ là “một cái chăn hẹp” mà thôi. Hạnh phúc hẹp thì lòng người làm sao mà rộng mở? Đói khát sẽ làm cho cuộc sống của họ trở nên quẫn bách, tù túng nên họ trở thành những kẻ hẹp hòi, ích kỉ, điên dại. Họ đối xử tàn nhẫn với người khác để mình có cơ hội được tồn tại.
Cũng để duy trì sự tồn tại con người phải tìm kiếm, phải giành dật nhau từng miếng ăn cho dù chỉ là những vỏ chuối, những lá bánh, lá gói cơm… Họ phải ăn những cái ăn không phải dành cho con người “Họ cứ lăn xả vào các hàng, đè sấn