Quá Trình Hình Thành Vườn Quốc Gia Núi Chúa

Raglay sinh sống. Theo tài liệu điều tra dân số 1/4/1999, Ninh Thuận có 57,1 nghìn

người Chăm, chiếm trên 11,3% dân số toàn tỉnh và chiếm 43,05% tổng số người

Chăm của cả nước; 47,6 nghìn người RagLay, chiếm 4,9% và 49,1%.

Tỉnh có hơn 20 làng người Chăm, trong đó có những làng vẫn duy trì các tập quán của chế độ mẫu hệ. Ninh Thuận có gần như còn nguyên vẹn hệ thống tháp Chàm xây dựng trong nhiều thế kỷ trước, tiêu biểu là cụm tháp Hòa Lai xây dựng thế kỷ thứ 9, cụm tháp Poklong Gaira xây dựng thể kỷ 13 và cụm tháp Pôrêmê xây dựng thế kỷ XVII.

2.2. Giới thiệu Vườn quốc gia Núi Chúa

2.2.1. Quá trình hình thành Vườn quốc gia Núi Chúa

Núi Chúa là khu bảo tồn thiên nhiên theo Quyết định 194/CT ngày 09/08/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, với tên gọi Rừng Khô Phan Rang có diện tích

1.000 ha. Khu bảo tồn thiên nhiên thuộc huyện An Phước (nay là Ninh Phước). Tuy nhiên, rừng của khu Rừng Khô Phan Rang đã bị phá hủy nghiêm trọng trong những năm giữa thập kỷ 90. Do vậy, Sở NN&PTNT tỉnh Bình Thuận đã lựa chọn một vùng ven biển ở phía bắc có hệ sinh thái rừng khô hạn, với trung tâm là Núi Chúa để thiết lập một khu bảo tồn thay thế (Lê Trọng Trải pers. comm.).

Trong năm 1997, Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng đã xây dựng dự án đầu tư và đổi tên thành Khu Bảo tồn thiên nhiên Rừng khô hạn Núi Chúa (Anon. 1997). Dự án đầu tư này đã được Bộ NN&PTNT phê chuẩn ngày 12/01/1998 theo Quyết

định số

243/BNN-PTLN và Uỷ

ban Nhân dân tỉnh Ninh Thuận phê chuẩn ngày

01/04/1998 theo Quyết định số 659/QĐ-UBND. Cũng trong tháng 4/1998, UBND tỉnh đã thành lập Ban Quản lý Khu Bảo tồn Thiên nhiên với 30 cán bộ, trong đó có 18 cán bộ kiểm lâm hoạt động tại một văn phòng và trạm kiểm lâm (Chi cục Kiểm lâm Ninh Thuận, 2000).

Tổng diện tích của khu bảo tồn thiên nhiên theo dự án đầu tư là 29.673 ha. Tuy nhiên, khi phê chuẩn dự án đầu tư, Bộ NN&PTNT đã quyết định chuyển 5.320 ha

ra khu vực vùng đệm, do đó diện tích của vùng bảo tồn thiên nhiên chỉ còn 24.353 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiệm ngặt có diện tích 16.087 ha, phân khu phục hồi sinh

thái có diện tích 8.261 ha và phân khu hành chính dịch vụ là 5 ha. Thêm vào đó, một vùng đệm có diện tích 11.200 ha cũng được xác định (Anon. 1997).

Ngày 9/07/2003, Khu BTTN Núi Chúa được chuyển hạng thành VQG Núi Chúa theo Quyết định số 134/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo Quyết định này diện tích của VQG là 29.865 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiệm ngặt là

16.087 ha, phân khu phục hồi sinh thái 6.421 ha và phân khu hành chính dịch vụ là 5 ha.

2.2.2. Điều kiện tự nhiên

a. Vị trí địa lý

VQG Núi Chúa nằm về phía Đông Bắc tỉnh Ninh Thuận, cách thị xã Phan Rang

- Tháp Chàm khoảng 20 km. Phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh lộ 702, phía Tây giáp quốc lộ 1A, phía Đông giáp Biển Đông.

Hình 2.1. Bản Đồ Vuờn Quốc Gia Núi Chúa


Nguồn Phòng DLST GDMT VQG Núi Chúa b Diện tích Theo quyết định số 1

Nguồn: Phòng DLST - GDMT, VQG Núi Chúa

b. Diện tích

Theo quyết định số

134/2003/QĐ-CP ngày 09/07/2003 của thủ

tướng chính

phủ, tổng diện tích tự nhiên Vườn Quốc Gia Núi Chúa là 29.865 ha, trong đó:

- Phần diện tích trên đất liền: 22.513 ha.

- Phần diện tích trên biển: 7.352 ha.

- Vùng đệm của VQG Núi Chúa: 7.350 ha.

c. Địa hình

- Khu vực Núi Chúa là một khối núi khá liền lạc, nhìn từ ảnh vệ tinh thì Núi Chúa có hình dạng như một con rùa có đầu quay về phía Nam, đuôi là phần nhô ra của mũi Xốp thò vào vịnh cam Ranh như đang từ biển bò lên đất liền. Khối núi này có nhiều đỉnh ở các độ cao khác nhau, mà đỉnh cao nhất là đỉnh núi Cô Tuy có độ cao 1.039 m.

- Địa hình thấp dần từ trung tâm ra, phần phía bắc và tây có độ dốc lớn hơn phía

nam và phía đông. Phía tây và tây nam địa hình bị chia cắt do có các khối núi nhỏ tạo thành các thung lũng sườn núi theo hướng đông bắc - tây nam, còn phía bắc, đông và đông nam địa hình ít bị chia cắt, thấp dần từ đỉnh núi ra biển.

- Địa hình có độ cao dưới 300 m: phân bố phía đông và nam và các khu vực ở

phía bắc giáp biển, địa hình ít bị chia cắt, độ dốc dưới 200.

- Địa hình có độ cao từ 300 – 700 m: phân bố phía tây và tây nam, địa hình bị chia cắt mạnh, hình thành các thung lũng và sườn vách dốc trên 200, cho đến 350.

- Địa hình có độ cao trên 700 m: phân bố phần trung tâm, có nhiều đỉnh núi ở các độ cao khác nhau, bị ngăn cắt bởi các thung lũng, có độ dốc từ 200 đến 400.

d. Địa chất thổ nhưỡng

VQG Núi Chúa nằm trong miền Trường Sơn Nam thuộc địa đới Kontum, có tuổi địa chất cách đây hàng triệu năm, được cấu tạo chủ yếu trên nền địa chất vững chắc của khối magma xâm nhập và phún xuất xen kẽ nhau với 3 loại đá mẹ đặc trưng là: Andelit, đá Liparit (Riolit) và Granite chiếm chủ yếu ở khu vực này. Ở ven rìa khối núi là trầm tích đệ tứ nguồn gốc biển và đầm lầy biển. Trên cơ sở nền đá mẹ này, quá trình phong hoá hình thành đất có các loại đất chính như sau: đất bạc màu trên đá Magma acid và cát, đất xám nâu vàng bán khô hạn, đất vàng đỏ trên đá mẹ magma acid, đất xói mòn trơ sỏi đá, đất cát, đất phù sa, đất mặn đầm lầy.

e. Thủy văn

Do địa hình hiểm trở, độ dốc cao 10 - 25o nên đã hình thành hệ thống suối trong vùng với mật độ khe suối 0,7 km/km2. Trong khu VQG có các suối với diện tích lưu vực nước lớn như: suối Nước Ngọt, suối Kiền Kiền, suối Đông Nha.

Hầu hết các suối trên đều bắt nguồn từ các khu vực núi cao chảy ra biển Đông. Ngoài ra, VQG Núi Chúa có khoảng hơn 40 km bờ biển trong đó có một số bãi cát và cồn cát nhỏ, và có một hồ nước nhỏ trên núi Đá Vách, ở gần biển khu vực Vĩnh Hy có nước ngọt tồn đọng quanh năm, là nơi có khá nhiều thực vật thân thảo, cây bụi và động vật: thú, lưỡng thê, bò sát sinh sống.

Thủy triều trong khu vực mang tính bán nhật triều không đều, trong ngày có hai lần triều lên và hai lần triều rút. Độ lớn của thuỷ triều trong kì nước cường khoảng 2 - 3,5 m.

f. Khí hậu và thời tiết

Nhit đvà lượng mưa: Chế độ nhiệt của khu vực mang những nét đặc

trưng của chế độ nhiệt miền Nam, không có mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình năm xấp xỉ 260C, nhiệt độ tháng lạnh nhất không xuống thấp hơn 230C (do địa hình thấp, đồng bằng), nền nhiệt độ các tháng trong năm khá ổn định theo kiểu chuyển tiếp khí hậu xích đạo - nhiệt đới. Các yếu tố cực trị về nhiệt có thể thấy qua các trị số cực tiểu như nhiệt độ tối thấp tuyệt đối có thể đạt 14 - 150C ở đồng bằng và giảm thêm theo độ cao.

Độ ẩm không khí liên quan đến chế độ nhiệt và mưa như trên nên độ ẩm trung bình chỉ khoảng 80%, trong các tháng mùa mưa thì cũng chỉ đạt khoảng 85%, trong các tháng mùa khô, độ ẩm tối thấp tuyệt đối có thể xuống dưới 20 - 25%.

Khí hu: Khu vực VQG Núi Chúa nằm lọt hoàn toàn trong khu vực khí hậu ven biển miền Trung thuộc vùng khí hậu nam Trung Bộ với đặc điểm là khô hạn cao trong toàn bộ chế độ mưa - ẩm, mà đặc điểm này liên quan đến vị trí bị che khuất của vùng này bởi các vòng cung núi bao bọc phía bắc, tây và nam với hai luồng gió mùa chính. Trong vùng khí hậu khô hạn này thì khu vực Phan Rang được coi là trung tâm khô hạn nhất nước, với lượng mưa trung bình năm dưới 700 mm, có những năm dưới 500 mm.

Mùa mưa ở khu vực này đến muộn so với các vùng khác và kết thúc cũng sớm hơn, bắt đầu khoảng tháng 9 - 10 và kết thúc khoảng tháng 12. Theo Luận chứng

Khoa học của VQG Núi Chúa, tính toán các chỉ số nhiệt và mưa hàng tháng thì khu vực này có 9 tháng khô, 4 tháng hạn và 2 tháng kiệt và được xếp vào loại khô hạn nhất ở Việt Nam.

2.2.3. Tài nguyên thiên nhiên

a. Tài nguyên rừng

VQG Núi Chúa có tài nguyên rừng rất phong phú và đa dạng với diện tích rừng khô hạn rộng lớn đặc trưng và độc đáo của Việt Nam, diện tích rừng thường xanh cây lá rộng xen kẽ cây lá kim đặc trưng của vùng khí hậu á nhiệt đới ẩm còn mang tính chất nguyên sinh.

Hthc vt rng: Theo kết quả điều tra năm 2001 - 2002, hệ thực vật rừng ở VQG Núi Chúa khá phong phú đa dạng và mang tính khô hạn rõ rệt với các kiểu rừng chính sau:

1) Kiểu thực vật trên cát biển.

2) Kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới.

3) Kiểu chuông gai hạn nhiệt đới.

4) Kiểu trảng cây to cây bụi cỏ cao khô nhiệt đới.

5) Kiểu rú kín lá cứng hơi khô nhiệt đới.

6) Kiểu rừng kín thường xanh hơi ẩm nhiệt đới núi thấp.

Qua điều tra đã ghi nhận được 1.265 loài thực vật bậc cao có mặt trên cạn nằm trong 85 bộ, 147 họ và 596 chi thuộc 7 ngành thực vật khác nhau (Việt Nam có 8 ngành thực vật bậc cao có mặt hiện hữu thì ở VQG núi chúa có tới 7 ngành, chiếm tới 87%, chỉ thiếu ngành cỏ Tháp Bút) bao gồm:

Những loài thực vật đã được ghi nhận có những giá trị khác nhau:

- Cây có giá trị kinh tế về gỗ: Có khoảng 19 họ, 24 chi, 42 loài, với một

số loài điển hình: Gõ đỏ, Cẩm lai, Trung bộ.

Cẩm thị,Thông lông gà,

Kim giao

- Cây có giá trị dược liệu: Có khoảng 94 họ, 309 loài, phổ biển là: Xá xị, Mã tiền, Quế chi, Trầm hương, Đỗ trọng trắng, Sa nhân.

- Cây làm cảnh: 28 họ, 53 chi, 104 loài. Họ

điển hình là họ

Lan

(Orchidaceae), có nhiều loài có giá trị

như: Quế

lan hương

(Aeridesfalcatum), Lan thủy tiên (Dendrobium Parmeti), Lan vảy rồng (D.aggregatum), Lan báo thủy (Dendrobium secundum (Bl.) Lindl..). Đặc biệt có nhiều loài địa lan ở đỉnh núi thuộc khí hậu bán ẩm.


sau:

- Cây đặc hữu: Thực vật VQG Núi Chúa không có đặc hữu nhưng có một số chi và 99 loài đặc hữu có tên đia danh phân bố ở Phan Rang thuộc 42 họ khác nhau, trong đó có 9 chi.

- Thực vật quý hiếm cần bảo vệ nghiêm ngặt: Có khoảng 35 loài nằm trong 10 họ thực vật khác nhau. Đáng chú ý là: Trầm hương, Mun, Gõ cà, Gõ mật, Trắc Việt.

Hđng vt rng: Kết quả điều tra năm 2001 - 2002 về hệ động vật như

Bảng 2.1.Hệ Động Vật tại Vườn Quốc Gia Núi Chúa


STT

Lớp

Bộ

Họ

Loài

1

Thú

8

23

72

2

Chim

17

49

181

3

Bò sát

3

13

36

4

Ếch nhái

1

4

17

Tổng


29

89

306

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.

Nguồn tin: BQLVQG Núi Chúa Động vật VQG Núi Chúa phân bố theo nhiều sinh cảnh khác nhau. Mỗi sinh

cảnh đặc trưng cho một tập đoàn động vật thường trú ngụ và kiếm ăn. Có thể chia thành 3 sinh cảnh chính như sau:

- Sinh cảnh rừng thường xanh trên núi thấp: Đây là dạng sinh cảnh tập trung trên các triền núi như Chúa Anh, Chúa Em, Đá Vách. Nơi đây tập trung nhiều loài thú nhất (khoảng 51 loài, chiếm 82,25% tổng loài thú trong Vườn). Đặc trưng là Cu li nhỏ, Chà vá chân đen, Báo Gấm, Sơn Dương, v.v. Bên cạnh đó có, có khoảng 97 loài chim, chủ yếu là các loài thuộc họ Chèo Bẻo, Quạ, Khướu, Cu Cu và một số loài quý hiếm đang bị đe dọa như Khách đuôi cờ, Niệc nâu, v.v. Ngoài ra, sinh cảnh này còn có khoảng 36 loài bò sát, ếch nhái đặc trưng là: Rồng đất, Kì đà vân, Rắn lục xanh, Trăn đất, các loài họ Rùa đầm.

- Sinh thái rừng khô hạn và trảng cỏ: Các khu vực khô hạn và trảng cỏ thường tiếp giáp với rừng thường xanh. Do vậy coi thể coi đây là khu vực vành đai nối liền rừng thường xanh với sinh cảnh bãi cát ven biển. Có 38 loài thú, chủ yếu là Cheo cheo Nam Dương (Trangulus javanicus), Mèo rừng (Felis bengalensis), Sóc chuột lửa (Tamiops Rodophei), Thỉ rừng (Lepus nigricollis),v.v. Đây là nơi sinh sống và kiếm ăn của nhiều loài chim nhất: 115 loài (chiếm 63.54% số loài). Đặc biệt là Công, Trĩ sao,

Gà tiền mặt đỏ, chỉ phân bố ở sinh cảnh này. Ngoài ra còn 9 loài bò sát, ếch, nhái, chủ yếu là các loài Thằn lằn bóng đốm (Mabuya macularia), Nhông xanh (Calostes vesicolor), Nhông xám (Calos Mystaceus), Rắn leo cây (Dendrelaphis pictus).

- Sinh cảnh ven biển và khu dân cư: Sinh cảnh này đặc trưng bởi các bãi cát ven biển và khu vực canh tác nông nghiệp xung quanh các thôn bản. Sinh cảnh này tập trung nhiều loài thú nhỏ và một số loài thú kiếm ăn gần với khu dân cư gốm 30 loài như Chuột, Sóc, Thỏ, v.v. Khoảng 98 loài chim gồm các loài Dẽ, Mòng Biển, Nhàn, các loại Cò và 24 loài bò sát, ếch nhái. Đặc trưng nhất cho dạng sinh cảnh này là nhóm Rùa biển: Rùa da (Dermochelys coriacea), Vích (Chelonia mydas), Đồi mồi (Eretmochelys imbricata) và Quảng đồng (lepidochelys olivacea). Ngoài ra còn có các loài Nhông cát (Leiolepis spp.), Rắn cát (psamdomophis condanarus), Rắn nước (Xenochrophis oiscator),v.v.

b. Tài nguyên biển

Nằm trong giới hạn từ Mũi Đá vách phía bắc cửa đẩm Vĩnh Hy kéo dài đến Hòn Chông, chiều dài đường bờ khoảng 24,5 km và nơi có chiều rộng nhất là 4,5 km

- là nơi phân bố của nhiều loài sinh vật biển với thành phần như sau:

Vsan hô: Tổng cộng có khoảng 307 loài san hô cứng tạo rạn thuộc 59

giống, 15 họ. Trong đó có 46 loài được ghi nhận phân loại mới. Hầu hết các dãy rạn san hô đều trong tình trạng khá tốt với độ bao phủ san hô cứng trung bình là 30%, phân bố từ dưới 10% đến ở 50%, độ che phủ cao nhất ở những điểm nước cạn như Hòn Đeo, Bãi Lớn với tỷ lệ tình trạng sống - chết hết sức khả quan là 3:1. Số san hô chết là rất thấp (trung bình 9%).

Điểm đặc biệt là sự phát triển rộng các dãy rạn chịu ảnh hưởng của thủy

triều kéo dài ngoài khơi từ các khu vực lân cận Mỹ Hòa - Thái An- Hang Rái, sâu từ 8 đến 15 m. Xa dần về phía Bắc, mức độ các dãy rạn phát triển theo độ dốc hình thành dãy rạn riềm hẹp ven bờ (khu vực Hòn Tai và Bình Tiên) và các dãy rạn nhỏ nối với nhau (Bãi Nhỏ). Các khu vực phong phú nhất như Bãi Nhỏ, Bãi Hõm, Hang Rái có hơn 1/3 trên tổng số san hô cứng (>110 trong số 307 loài).

Chiều dài rạn san hô ở Hang Rái, Mỹ Hòa có thể kéo dài 1 km từ bờ.

Xem tất cả 93 trang.

Ngày đăng: 29/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí