gái rất đẹp, rất hiền (…) là những kẻ không mấy ngày được thỏa cơm. Đối với họ có lẽ cái ăn còn cần hơn cả tình yêu” [3, 209]. Rất có thể nếu không đói ăn thì Hàn và Tơ sẽ thành một cặp rất xứng đôi. Nhưng Tơ đã bán cái xú-vơ-nia của Hàn đi để ăn bánh đúc cũng chỉ vì cô quá khổ sở, quá đói khát.
Chỉ vì cái đầu cá, hay nói cách khác chỉ vì miếng ăn không được ngon mà Trương Rự (Nửa đêm) đã giết vợ mình một cách nhẫn tâm: “Hắn đứng phắt lên hung dữ như một con hổ đói, nhảy bổ lên người vợ, nghiến chặt răng, xoắn lấy tóc nàng. Nàng khóc òa lên. Hắn giúi đầu nàng xuống (…). Rồi đấm, đạp, tát túi bụi trên đầu, mặt, bụng, lưng người thiếu phụ. Hắn cào, hắn cấu, hắn bóp cổ và lay, và lắc, đấm bằng tay, đá bằng chân, hích bằng khuỷu tay, thúc bằng đầu gối, hắn lăn xả vào bằng đầu, bằng vai, bằng ngực, bằng đùi, bằng răng. Và đến lúc hắn ngừng lại thì người đàn bà khốn nạn đã rũ rượi mềm như con bún, máu ộc ra bằng mồm, bằng mũi, bằng lỗ tai, bằng bao nhiêu là vết thương. Máu lêng láng ra nhà ” [3, 302].
Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên rơi vào con đường lưu manh thực ra cũng chỉ vì miếng ăn. Bản năng say sưa, chém giết, phá phách của Chí Phèo không tách rời hoàn cảnh “không một thước đất cắm dùi”, “chả làm gì nên ăn”. Bởi vậy, Chí nảy ra ý muốn “thích đi ở tù” vì “quả đi tù sướng quá. Đi tù còn có cơm để mà ăn”. Như vậy, chính vì không có cái ăn mà Chí đã đến nhà Bá Kiến nhận làm tay sai đắc lực cho hắn. Cũng chính vì miếng ăn cùng với sự hả hê bốc lên từ lần đầu đến nhà Bá Kiến (được hắn giết gà, thết rượu lại đãi thêm đồng bạc về uống thuốc) mà Chí Phèo đã nhận đi đòi nợ Đội Tảo không một chút đắn đo, do dự.
Bên cạnh đó, khi đã bước sang cái dốc bên kia của cuộc đời hắn mới thực sự được ăn. Bát cháo hành và bàn tay chăm sóc của Thị Nở đã làm thức tỉnh tính người ở Chí. Sau hai ngày nhịn đói hắn cảm thấy “người nôn nao, chân tay bủn rủn… bụng phinh phích đầy”. Bát cháo hành đã xoa dịu cái đói và Chí cảm nhận ở đó hương vị tình người. Những tưởng đời mình từ đây có hơi cháo hành là của riêng, nào ngờ Chí cũng không có quyền được hưởng. Hơi cháo hành chính là sự níu giữ cuối cùng của Chí đối với cuộc đời này. Mất đi hơi cháo hành là mất đi sự bấu víu cuối cùng, là hết.
Những chi tiết đó cho thấy Nam Cao đã hết sức tinh tế, sâu sắc trong việc thể hiện quá trình chuyển biến của Chí Phèo từ người lương thiện thành một kẻ lưu manh, tha hóa. Và đó cũng chính là điều mà nhà văn Nam Cao muốn nói: xã hội phong kiến đã bóp nghẹt sự sống, đã mang đến cái đói để cướp đi quyền sống của những con người vô tội, đẩy họ lâm vào cảnh đói nghèo, bần cùng. Mà một trong những nguyên nhân trực tiếp tạo nên những hoàn cảnh đen tối, ngột ngạt, hắc ám đó chính là sự thống trị của bọn cường hào, ác bá. Trong cái làng quê chật chội, tù túng ấy có biết bao kẻ du côn, cường hào tồn tại và hưởng thụ bằng cách giành giật miếng ăn của người khác. Nam Cao cũng tỏ ra thật sâu sắc khi vạch ra mối quan hệ thực trong nội bộ bọn cường hào, thống trị. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế “quần ngư tranh thực” như lời ông thầy địa lí nào đó nói “hồi năm nọ” nên bọn cường hào làng này chia thành năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà chính là do sức hấp dẫn của miếng ăn. Ai cũng muốn ăn no, ăn tham nên tìm mọi cách cho nhau “ăn bùn”. Chúng được ví như một đàn cá tranh mồi “Mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy bối, bè nào cũng muốn ăn cả. Ngoài mặt thì tử tế với nhau nhưng trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụi bại để cưỡi lên đầu lên cổ” [3, 37]. Tình trạng bè cánh tranh ăn trong bọn cường hào là rất phổ biến và có tính qui luật ở nông thôn. Nạn nhân không ai khác chính là những người nông dân nghèo - những ruồi muỗi chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.
Điển hình nhất về hình tượng bóc lột, đè nén của giai cấp thống trị đối với người nông dân chính là con cáo già Bá Kiến. Vì miếng ăn mà hắn đã thi hành rất nhiều chính sách thâm độc để vơ vét, bóp nặn dân đen đến cùng kiệt. Hắn có những cách suy nghĩ, toan tính hết sức quỉ quyệt như sau:
Đây là chính sách đè nén, bóp nặn của hắn:
“Cụ tiên chỉ làng Vũ Đại nhận ra rằng: đè nén con em đến nỗi nó không chịu được mà phải bỏ làng đi là dại. Mười thằng đã đi ra thì chín thằng trở về với cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa. Một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập ghế để đòi được năm đồng, nhưng được rồi thì
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Hồng – Nhà Văn Gắn Bó Máu Thịt Với Nhân Dân Lao Động Nghèo
- Sự Ám Ảnh Về Cái Đói Và Miếng Ăn Của Người Nông Dân
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 - 6
- Tha Hóa Nhân Cách - Vấn Đề Nhức Nhối Trong Sáng Tác Nam Cao
- Cái Đói Trong Trang Văn Của Nguyên Hồng
- Khát Vọng Nhân Văn Của Nam Cao Và Nguyên Hồng Qua Vấn Đề Cái Đói
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
vất trả lại năm hào “vì thương anh túng quá!”. Và cũng phải tùy mặt nữa: những thằng có máu mặt, vợ đẹp, con đàn chính là những thằng sợ quan và dễ bóp, trái lại những thằng tứ cố vô thân, giết chúng thì dễ, nhưng giết được chỉ còn có xương; mà gây với chúng là mở một dịp tốt để cho các phe nghịch xoay lại mình” [3, 41].
Còn đây là chính sách dùng người và trị người của hắn:
“Cụ Bá Kiến không cần than thở: trị không lợi thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò? (…) Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến, chỉ cho nó năm hào uống rượu, là có thể sai nó tác hại bất cứ anh nào không nghe mình. Gặp người bướng bỉnh, đanh thép thì nó lừa đốt nhà hay cho mấy lát dao, gặp người non mặt, thì nó quăng vào chai rượu lậu, hay gây sự rồi lăn ra kêu làng. Có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn, nếu không thì giữa đám dân hiền lành và yên phận này khéo lắm chỉ bóp nặn được vào vụ thuế. Thuế một năm có một lần nếu chỉ trông vào đấy thì bán cha đi cũng không đủ để bù vào chỗ ba, bốn nghìn bạc chạy chọt để tranh triện đồng” [3, 42].
Nhưng rủi cho Bá Kiến, hắn không ngờ rằng khi bị bóc lột đến cùng đường thì sẽ dẫn đến thảm cảnh “tức nước vỡ bờ”. Và hắn đã phải trả một cái giá rất đắt bằng chính mạng sống của hắn. Suy cho cùng Bá Kiến chết vì miếng ăn, do quá tham lam và thâm độc.
Như vậy, có thể thấy rằng cái đói và miếng ăn tồn tại mọi lúc, mọi nơi, mọi giai cấp. Không chỉ nông dân đói mà bọn thống trị cũng đói. Có đói thì chúng mới có tâm lý thèm ăn đến vậy. Thông qua vần đề cái đói và miếng ăn Nam Cao cũng đã phản ánh mối quan hệ đầy phức tạp, những mâu thuẫn chồng chất trên bình diện giai cấp.
2.2.2. Cái đói và miếng ăn - thử thách ghê gớm của người trí thức
Tình hình xã hội ngột ngạt, nạn đói lan tràn, vây lấy con người, nó ló đầu vào mọi nhà, mọi số phận. Không chỉ nông dân phải gánh chịu hậu quả của cái đói mà những trí thức nghèo cũng cùng chung một cảnh ngộ, với bao lo toan, căng thẳng vì miếng cơm manh áo. Bao số phận thê thảm của những gia đình trí thức mòn mỏi, tan tác vì thất nghiệp, vì đói khát.
Trong bức tranh chung về cuộc sống người tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã góp vào những nét bút rất mực chân thực và sắc sảo làm cho hình ảnh vừa bi hài của lớp người này trở nên đầy ám ảnh.
Đi sâu vào từng tác phẩm Nam Cao viết về người trí thức ta thấy các nhân vật của ông rất gần nhau về hoàn cảnh sống. Cuộc sống diễn ra xung quanh họ ngột ngạt, tù túng nhưng lại đầy bất trắc. Trước hết là cuộc sống vật chất của họ vô cùng điêu đứng khổ sở. Họ luôn là những người phải chống chọi tới kiệt sức với cái đói cái khổ của kiếp người. Họ ở trong tư thế co ro thảm hại vì đời sống bấp bênh. Cái đói đang trực tiếp đe dọa cuộc sống của họ. Đối với họ cuộc sống là một chuỗi ngày dài lo âu. Ngày này sang ngày khác không lúc nào những người này không phải bận tâm đến bữa cơm manh áo “Làm chết người cũng chỉ vì mỗi ngày mấy bữa cơm, ngoài ra chẳng có một chút lạc thú nào khác nữa, chẳng có một cái hi vọng gì hơn nữa” [3, 579]. Những tưởng năm tháng đi qua, cuộc đời của anh trí thức sẽ sáng sủa hơn, hi vọng hơn một chút. Nhưng không! Không có một chút khấm khá nào hơn qua năm tháng. Từ một gia đình chưa đến nỗi nào là nghèo khổ họ rơi vào cảnh ngộ đáng thương. Tất cả mọi thứ trong gia đình riêng của họ giờ đây đều đổi khác. Đồng quà tấm bánh cho con cũng đành phải quên đi, quần áo cũng phải nhuộm nâu để đỡ tốn xà phòng “Cơm mỗi ngày cũng chỉ được một bữa trưa”. Tất cả họ mòn mỏi, chết dần trong tuyệt vọng giữa vòng vây tỏa của cái đói.
Để giải thoát khỏi sự bủa vây khủng khiếp ấy, người trí thức đã phải vật lộn với sinh kế gần như hết cả hơi sức. Biết làm gì cho cuộc sống đỡ vất vả hơn? Họ cố gắng mãi mà cuộc sống không buông tha cho họ. Thật đáng thương khi cuộc đời của họ không có một chút lạc thú, không một giây phút thảnh thơi, được nghỉ ngơi sau mỗi ngày vất vả lo cho miếng ăn. Cái đói cứ ám ảnh họ trong từng giây từng phút, lách vào từng ý nghĩ, từng suy tính cùng cực chi li. Người trí thức vốn rất ghét sự tính toán. Thế nhưng họ không thể trốn tránh được thực tế ấy. Trong cơn đói ngấu nghiến họ phải tính xem nên ăn gì cho phù hợp với túi tiền lép kẹp của một anh chàng thất nghiệp: “Hắn cố xua hình ảnh một bát phở bốc khói ra khỏi trí. Bởi vì phở thì ngon thật. Nhưng mà đắt. Mà lại lõng bõng nhiều nước quá. Tiếng rằng
một bát, nhưng nếu chỉ kể nguyên bánh và thịt, khó mà ăn được năm miếng thỏa. Đúng hai hào một bát. Biết ăn mấy bát? Nhiều, không đào đâu ra tiền được, ít, dở miệng, càng thêm khổ, mà lát nữa ra đến ngoài kia, tiểu tiện tòe một cái lại đâu vào đấy: bụng đói hoàn đói. Thà làm mấy hào cơm cho chắc dạ…” [3, 396].
Cái đói cứ cận kề đe dọa đời sống của họ khiến họ luôn bị ám ảnh, giày vò không thể nghĩ gì khác ngoài những lo lắng, toan tính vụn vặt về miếng cơm manh áo. Ở chương X khi Thứ dọn sang ở nhà trọ nhà ông Học ăn bữa cơm ngon, canh ngọt do bà Hà nấu anh đã chạnh lòng nhớ về quê nhà, nơi mà “bảy đồng bạc có thể đủ cho cả một gia đình: hai vợ chồng, một con, một đứa ở ăn. Ở nhà quê mỗi người chỉ ăn hết ba xu. Còn hồi thóc hào tám một thùng, mỗi người chỉ ăn chừng một xu hoặc xu rưỡi hai xu…” [3, 630]. Cứ thế quá khứ tái hiện lại những cảnh đói khát của người dân quê anh và cả gia đình anh. Sau đó trở về hiện tại: “Mâm cỗ có hai bát cá riêu, San, Thứ bàn nhau hai người ăn chung một bát thôi, còn để bát kia nguyên vẹn để bà cụ Hà không phải ăn thừa” [3, 632]. Những dòng suy nghĩ về miếng ăn miên man mãi không thôi: vừa ăn Thứ lại vừa tính toán về công ăn việc làm của người bà ruột đã bảy tám mươi tuổi của mình đang sống túng đói ở quê nhà. “Hình ảnh bà cụ Hà hầu hạ cơm nước tuy cực khổ nhưng không phải một nắng hai sương và được ăn uống đầy đủ làm Thứ khát khao” [3, 632]. Trong bụng rất muốn rước bà lên tỉnh để thay chân cái bà già mình thuê thổi cơm tháng để “có thể nuôi bà mỗi ngày hai bữa cơm như hai bữa cơm của bà Hà bây giờ” [3, 632]. Nhà trí thức chỉ mong muốn bà đỡ khổ, chỉ ao ước được nuôi bà như nuôi đứa ở. Cái mộng chỉ có vậy mà ngày này sang ngày khác y phải tính toán đến nát óc ra rồi mà vẫn không thể thực hiện được.
Có thể nói rằng cái đói như một cái vòi bạch tuộc cứ quấn lấy chân người trí thức. Dường như họ được sống là để không ngớt bị phủ lên đầu bao nhiêu bất hạnh. Càng đi sâu vào vòng đời của người trí thức ta càng thấy họ đã phải trải qua những bi kịch rất khác nhau. Nhưng dẫu sao cuộc sống có vất vả đến thế nào họ vẫn phải sống. Gánh nặng trên vai mà họ phải gánh đó là nuôi sống gia đình, vợ con. Cho nên người trí thức của Nam Cao vẫn phải làm nhiều hơn cái sức “trói gà” của họ
cho phép họ làm, dù chỉ đảm bảo nuôi thân và nuôi gia đình. Nhưng muốn làm được không dễ. Cái nghèo, cái đói che lối đi của họ. Họ cố đứng lên và bước đi tiếp nhưng cuối cùng kết quả là nhiều nhân vật của Nam Cao đã phải trả những cái giá rất đắt trước thử thách ghê gớm của miếng cơm manh áo.
Trước tiên đó là những mất mát, hao mòn về thể xác do quá lao lực. Vì kế mưu sinh mà Đích đã phải đi đến một nơi xa lắm để làm. Công việc vất vả khiến Đích đã chuốc vào người một căn bệnh nan y và nó cứ tiêu dần, gặm dần cuộc sống của anh. Đến một ngày thân xác Đích chỉ còn như một cây khô bất động. Bệnh lao phổi của anh ngày càng trầm trọng. Đích thấy cái chết đã lởn vởn gần kề mình, không cách nào kéo dài thêm sự sống. Bạn bè Đích thấy buồn, thấy đau vì bất lực. Rồi họ khóc, khóc cho số phận ngắn ngủi của Đích hay khóc cho thảm cảnh chung của cuộc đời đen tối đang đẩy cả họ vào con đường chết?
Hoặc giả có những nhân vật tạng người vốn đã ốm yếu nhưng vẫn phải cố làm, làm để sống. Rồi đổ bệnh. Nhưng vẫn phải ăn phải sống nên lại vẫn phải cố làm để giết chết mình nhanh hơn. Hài trong Quên điều độ là một trường hợp như vậy. Anh mang trong mình một căn bệnh nguy hiểm. Anh phải dè sẻn từng đồng xu, ăn uống kham khổ mà cố cho đó là điều độ, vệ sinh. Chao ôi! Thật ra cái nhịp sống ấy cũng chỉ là lí do để che đậy cái nghèo đói của kẻ không tiền “Hắn ăn có chừng thôi và chỉ ăn rau. Rau đã lành lại rẻ. Không bao giờ uống rượu chỉ uống toàn nước lã. Uống nước lã đun sôi vừa lành vừa thanh đạm lại không tốn một đồng xu nhỏ. Hắn không hút thuốc lào, thuốc lá. Hắn không đi xem hát, xem chớp bóng để thì giờ mà ngủ. Hắn không đi xe để dùng cách đi bộ làm thể thao. Sự vệ sinh ra cũng rẻ. Thật là hợp với người không tiền” [3, 368]. Biết mình ốm yếu bệnh tật nhưng anh vẫn phải làm cật lực để kiếm sống, dù biết như vậy là đổi lấy cái chết nhưng anh ta tự nhủ: “thà cứ làm việc cho chết quách”. Bởi vì “Hắn không dạy thì chết đói. Có lẽ chết đói là một cách chết mà chúng ta sợ nhất trong bao nhiêu cách chết. Ta có thể liều chết mà kiếm ăn” [3, 368]. Cứ thế và cứ thế cuộc sống nghèo đói khiến người trí thức bắt buộc phải sống điều độ.
Thật đáng thương khi cuộc đời của người trí thức không có một chút lạc thú, không một giây phút thảnh thơi, được nghỉ ngơi sau mỗi ngày vất vả lo cho miếng ăn. Hiện lên trước mắt chúng ta là hình ảnh những anh trí thức gầy gò, những nếp nhăn hằn sâu, những đôi mắt mệt mỏi chán chường vì lo lắng. Cả cuộc đời họ không một tiếng cười lạc quan, thoải mái có chăng đó là tiếng cười đau xót, đầy uất nghẹn của những con người đau khổ vì sinh kế hoặc cười khi gặp những điều bực mình! Tiếng cười của họ đi ngược lại bản năng con người, đi ngược lại quy luật sinh học. Đau khổ và xót xa mà lại cười ư? Họ cười ra nước mắt, cười vì không thể khóc được nữa. Cái nghèo khổ tạo ra cho họ những quy luật riêng như thế “mỗi lần tức giận hắn vội tìm ra một ý nghĩ ngộ nghĩnh gì để mà cười cho đỡ khổ” [3, 359]. Chúng ta không trách sao lại có người kì quặc đến thế. Nhưng biết làm thế nào, hoàn cảnh sống bắt buộc người ta phải vậy. Nếu không cười thì họ chỉ thấy toàn nỗi lo âu, bực dọc mà thôi: “Ấy là cái lo không có gạo ăn, không có tiền mua thuốc cho một mẹ già ốm hay một bát canh cúng cha, không có áo cho thằng em trai vào vụ rét sắp tới này, hay không tìm được chỗ gả chồng cho một đứa con gái nhan sắc kém lại không có vốn. Những cái lo nhỏ nhặt, tủn mủn hơn nữa thế vẫn phải lo” [3, 68]. Vì vậy, đặt vào hoàn cảnh ấy ai cũng chỉ hành động được đến như thế mà thôi. Khi chịu quá nhiều nỗi đau, nước mắt không thể chảy ra ngoài được nữa, nó sẽ chảy ngược vào trong dồn nén và cuối cùng phát ra tiếng cười đầy phẫn uất.
Không chỉ tự tạo niềm vui cho mình bằng cách “cười”, họ còn đưa ra những triết lí khôi hài về miếng ăn và biện minh vì sao như thế: “Không phải những món ăn đắt tiền mới có thể ngon. Thật thế. Ngon hay không là tại miệng. Mà cái miệng đói thì ăn gì cũng ngon. À, thế thì cần gì phải ăn sang. Này, chỉ dăm ba hào là đủ, cùng lắm là đồng bạc, họ cũng có thể đãi nhau một bữa ăn ngon bằng một bữa đáng hàng chục bạc trong một hàng cơm tây. Đã ăn cốt chỉ ngon là được, có cần gì sang? Ngon, thì họ thấy ngon rõ” [3, 73]. Cái triết lí ấy xem ra cũng đúng. Nhưng có thật “miệng người đói ăn gì cũng ngon” không? Nếu đặt họ vào hoàn cảnh của người nông dân, khi đói phải ăn thứ “chè cám” thì liệu có ngon được hay không? Ở đây cái triết lí này của Nam Cao không đặt cho một tầng lớp cụ thể nào hết. Do đó,
ta có thể khái quát rộng ra để biết được dù sao chăng nữa cái triết lí trên kia cũng chỉ mang tính khôi hài chứ hoàn toàn không có ý thuyết phục ai. Âu, đó cũng chỉ là một phép “thắng lợi tinh thần” kiểu AQ của văn hào Lỗ Tấn. Còn có không ít triết lí rải rác trong sáng tác của Nam Cao về nhiều vần đề nhưng sâu xa vẫn cùng một nguyên nhân là do cuộc sống khổ cực, đói nghèo.
Điền (Nước mắt) là một người có học vậy mà cũng chỉ vì nghèo đói mà anh đã viện ra những lí do hết sức vô lí để bài bác thuốc men. Theo suy nghĩ của Điền “thuốc” chẳng chữa được bệnh gì, uống lắm chỉ tổ hại dạ dày. “Ờ, nếu thuốc quả có công hiệu như người ta vẫn khoe khoang thì chỉ những nhà giàu là sống mãi thôi, còn bao nhiêu những người nghèo thì sẽ chết hết, không còn một mống” [3, 378]. Một trí thức mà suy nghĩ thật quái đản. Nhưng thật ra cái lí do sâu xa bên trong là sự túng quẫn, cái nghèo, cái đói.
Cái đói chính là một thảm họa mà con người trong xã hội đương thời đang phải gánh chịu. Những thảm họa ấy trên trang viết của nhà văn hiện ra vô cùng đáng sợ. Còn gì đau đớn hơn khi cuộc sống của con người chỉ thu vào việc làm thế nào để có cái ăn cho khỏi đói. Mọi người bị ám ảnh, hành hạ, lúc nào cũng lo chết đói, lúc nào cũng lo làm thế nào không chết đói. Nam Cao đã thể hiện được điều đó qua rất nhiều hình tượng. Ở Những truyện không muốn viết thêm một lần nữa nhà văn khẳng định nỗi lo lắng băn khoăn ấy.
Nhân vật “tôi” trong Những truyện không muốn viết là một anh văn sĩ. Anh trăn trở, vật lộn giữa một bên là tâm huyết với nghề nghiệp văn chương và một bên là trách nhiệm của một người chồng, một người cha. Anh là một người đam mê nghệ thuật muốn được “phụng sự nghệ thuật”. Tuy nhiên đó chưa phải là lí do anh trở thành văn sĩ. Quan trọng hơn lí do “phụng sự nghệ thuật” là lí do mưu sinh. Viết gần như là cách duy nhất anh kiếm được tiền. Động lực này luôn thúc đẩy anh ham viết hơn. Anh bộc bạch: “Giá thử viết mà không được một đồng xu nhỏ thì có lẽ tôi cũng ham vừa vừa thôi” [3, 85]. Gia đình nợ nần, vợ con nheo nhóc là trách nhiệm lớn mà anh phải gánh vác. Ám ảnh cái đói đã biến anh không thể nghĩ được cái gì xa hơn, cao hơn những nhu cầu tối thiểu của gia đình và bản thân: “Trọn đời tôi tôi