Cần quy định cụ thể, rò ràng về “tổ chức chuyên trách” tại khoản 1 Nghị định số 25/2010/NĐ-CP để quá trình triển khai thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu một cách hiệu quả, trách nhiệm. “Tổ chức chuyên trách” là một cơ quan, bộ ngành hay là một cơ quan độc lập chỉ thực hiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu. Xuất phát từ vị trí, vai trò của các TDDKTNN, tác giả đề xuất cần có quy định rò ràng về “Tổ chức chuyên trách” ở đây là cấp trên trực tiếp của HĐTV, tổ chức độc lập, trực thuộc Chính phủ, trực tiếp tham mưu giúp Chính phủ trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu tại các TĐKTNN.
Từ đề xuất trên, sẽ phân định được rò ràng giữa chức năng của chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước. Để thực hiện điều này, sẽ phải sửa đổi, bổ sung Nghị định 99/2012/NĐ-CP và Nghị định số 25/2010/NĐ-CP các quy định tại về quyền, trách nhiệm của Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (điều 9, Nghị định 99/2012/NĐ-CP), quyền và trách nhiệm của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội (điều 10, 11, 12, 13, Nghị định 99/2012/NĐ-CP), và các quy định có liên quan khác.
Thành lập một “Tổ chức chuyên trách” cách này sẽ giúp làm rò chính sách sở hữu và định hướng của nó, đồng thời đảm bảo cho chính sách được thực hiện nhất quán hơn. “Tổ chức chuyên trách” để thực hiện chức năng sở hữu có thể góp phần tăng cường và phối hợp các kỹ năng chuyên môn cần thiết bằng cách tổ chức “các nhóm” chuyên gia về các vấn đề chủ chốt như báo cáo tài chính hay đề cử HĐQT. Nó là công cụ chính trong việc phát triển hệ thống báo cáo tổng hợp về sở hữu nhà nước. Cuối cùng, nó là một cách hiệu quả để phân chia rò ràng giữa việc thực hiện các chức năng sở hữu và các hoạt động khác của nhà nước, đặc biệt là điều tiết thị trường và chính sách phát triển ngành.
Nếu không thành lập “Tổ chức chuyên trách” để thực hiện chức năng sở hữu thì yêu cầu tối thiểu là thành lập một cơ quan điều phối vững mạnh trong số các cơ quan hành chính có liên quan. Việc này giúp đảm bảo mỗi TĐKTNN có một nhiệm vụ rò ràng và được hướng dẫn cụ thể, nhất quán về mặt chỉ đạo chiến lược hay yêu cầu báo cáo. Cơ quan điều phối sẽ điều hòa và sắp xếp các hoạt động và chính sách do các cơ quan nhà nước khác nhau trong các bộ khác nhau đảm trách. Cơ quan điều phối cũng phải chịu trách nhiệm xây dựng chính sách sở hữu tổng thể, cung cấp hướng dẫn và thống nhất thông lệ giữa các bộ.
Thứ hai, cần có các quy định hoàn chỉnh quy định về TĐKT trong Luật doanh nghiệp và trong các văn bản pháp luật khác:
Luật doanh nghiệp cần đưa ra khái niệm đầy đủ về TĐKT, cơ cấu tổ chức (khi bổ sung các quy định về TĐKT vào Luật doanh nghiệp cần rút kinh nghiệm từ việc thí điểm thành lập các TĐKTNN, kế thừa các quy định tại các nghị định về TĐKTNN…); có hay không có tư cách pháp nhân; tại điều 149, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn, như vậy cần quy định như thế nào là nhóm công ty có quy mô lớn? Quy mô lớn về vốn, về cơ cấu tổ chức …?
Chính phủ cần có những quy định về gắn quyền và trách nhiệm trong việc quản lý, điều hành TĐKTNN để chấp nhận áp lực cạnh tranh của thị trường, cụ thể: Bổ sung vào điều 7, điều 8, điều 9, điều 10, điều 11, điều 12, điều 13, điều 14: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phải chịu trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra với tập đoàn tránh tình trạng TĐKTNN thua lỗ, phá sản nhưng nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đều vô can. Trong đó chú trọng đến cải cách quy định pháp lý liên quan đến Bộ quản lý ngành:
- Xây dựng cơ chế để Bộ quản lý ngành phải chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và phải xác định rò ràng mối quan hệ với các Cơ quan Nhà nước liên quan, kể cả Kiểm toán Nhà nước: Bộ quản lý ngành TĐKTNN phải chịu trách nhiệm về phương thức thực hiện chức năng sở hữu nhà nước của mình. Cơ quan này có trách nhiệm giải trình, trực tiếp hoặc gián tiếp, đối với các cơ quan đại diện cho lợi ích của dân chúng như QH. Trách nhiệm giải trình của cơ quan này đối với cơ quan lập pháp cũng như trách nhiệm của bản thân TĐKTNN cần được định rò.
Trách nhiệm giải trình phải đảm bảo việc thực hiện quyền sở hữu không làm ảnh hưởng đến quyền của cơ quan lập pháp liên quan đến chính sách ngân sách. Chủ sở hữu phải báo cáo kết quả thực hiện quyền sở hữu nhà nước và mức độ đạt được các mục tiêu của nhà nước về mặt này. Chủ sở hữu phải cung cấp thông tin định lượng và tin cậy về cách thức quản lý TĐKTNN theo lợi ích của chủ sở hữu cho công chúng và tổ chức đại diện của họ. Các cơ chế cụ thể như ủy ban đặc biệt hay thường trực có thể được thiết lập để duy trì đối thoại giữa Bộ quản lý ngành và cơ quan lập pháp. Trong trường hợp phải điều trần trước QH, các vấn đề mật phải được trình bày thông qua các thủ tục đặc biệt như phiên họp kín hay bí mật. Mặc dù được coi là một việc làm có ích, hình thức, tần suất và nội dung của đối thoại này có thể khác nhau tùy thuộc vào quy định trong hiến pháp cũng như thông lệ hoạt động và vai trò của QH.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Bất Cập Của Pháp Luật Và Việc Thực Thi Pháp Luật Về Quản Trị Tập Đoàn Kinh Tế Vinashin
- Bất Cập Trong Quy Định Của Pháp Luật Về Tổ Chức, Hoạt Động Của Tập Đoàn Kinh Tế Vinashin
- Những Hạn Chế Về Quản Lý, Giám Sát Của Chủ Sở Hữu
- Hoàn Thiện Quy Định Pháp Lý Về Bổ Nhiệm Thành Viên Hội Đồng Thành Viên (Hội Đồng Quản Trị) Độc Lập
- Cải cách pháp luật về quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước qua bài học Vinashin - 13
- Cải cách pháp luật về quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước qua bài học Vinashin - 14
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
- Xây dựng cơ chế để Bộ quản lý ngành thực sự đại diện cho chủ sở hữu nhà nước tham gia vào các hoạt động của TĐKTNN: Tham gia cuộc họp HĐTV hoặc ĐHĐCĐ và biểu quyết; xây dựng quy trình tuyển chọn HĐTV hoặc đề cử HĐQT cụ thể và minh bạch:
Thứ ba, khi xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật doanh nghiệp, Chính phủ và các cơ quan chuyên môn phải căn cứ và bám sát vào Luật doanh nghiệp. Chỉ đưa ra những đặc thù riêng để đảm bảo các chiến lược
phát triển quan trọng của TTĐKTNN nhằm phục vụ mục tiêu nhà nước có thể can thiệp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và xã hội theo mục tiêu lựa chọn:
Do ngay từ khi mới thành lập, TĐKTNN đã đặt ra hai mục tiêu lớn: Vừa phải hướng tới lợi nhuận và hiệu quả trong sự cạnh tranh thị trường với các loại hình doanh nghiệp khác, đồng thời vừa phải là công cụ chủ lực để Nhà nước can thiệp ổn định kinh tế vĩ mô và xã hội theo mục tiêu lựa chọn. Các trách nhiệm này muốn thực hiện được cần phải có những chính sách đặc thù nhất định. Tuy nhiên điều này cần phải được luật hóa hay phải đưa vào điều lệ của quy chế hoạt động. Vấn đề này phải được thảo luận một cách thận trọng và phải được công khai cho người dân biết, cụ thể về: Mục tiêu, bản chất và phạm vi hoạt động chửa những trách nhiệm, nhiệm vụ này; các chính sách đặc thù áp dụng đối với từng TĐKTNN; chi phí hoạt động…
3.2.2. Cải cách các quy định pháp luật về cơ chế giám sát
3.2.2.1. Cải cách các quy định pháp luật về cơ chế giám sát của chủ sở hữu Thứ nhất, để kiểm soát, đánh giá được việc thực hiện chức năng chủ sở
hữu Nhà nước của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được phân công cần có quy định về giám sát việc thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được phân công thực hiện. Theo tác giả, cần bổ sung quy định này thành một điều luật trong Luật doanh nghiệp. Theo đó, QH mà cụ thể là Ủy ban Kinh tế sẽ là cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được phân công; Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước giám sát việc thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được phân công theo thẩm quyền.
Thứ hai, cần có các quy định cụ thể về thời gian tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát theo định kỳ của Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Bộ quản lý ngành đối với các TĐKTNN.
Tại điểm n, khoản 1, điều 9, Nghị định 99/2012/NĐ-CP cần quy định thời
gian cụ thể để tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát; đánh giá đối với Chủ tịch và thành viên HĐTV, KSV chuyên ngành, TGĐ, Phó TGĐ, Kế toán trưởng trong việc quản lý, điều hành TĐKTNN. Ngoài ra cần quy định cụ thể việc xử lý kết quả kiểm tra, giám sát tại các TĐKT, tác giả đề xuất kết quả này phải báo cáo QH mà cụ thể là Ủy ban Kinh tế (là cơ quan giám sát cao nhất theo đề xuất của tác giả) để kịp thời xử lý những vấn đề nghiêm trọng tai các TĐKT.
Thứ ba, ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chức năng giám sát: Các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát TĐKTNN hiện nay gồm: Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Bộ quản lý ngành, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Lao động – Thương Binh và xã hội, UBND cấp tỉnh. Để phối hợp chặt chẽ trong quá trình thanh tra, kiểm tra, giám sát đồng thời để tránh chồng chéo, gây ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của TĐKTNN Chính phủ cần ban hành quy định về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này.
3.2.2.2. Cải cách các quy định pháp luật về cơ chế giám sát của cổ đông Vấn đề chất vấn của cổ đông: Luật Doanh nghiệp 2005 nên quy định
bổ sung thêm quyền chất vấn của cổ đông cũng như cơ chế đảm bảo thực thi quyền đó. Điều này được thực hiện sẽ làm tăng khả năng giám sát điều hành của cổ đông, giúp ngăn chặn sớm hành vi gây hại cho công ty của những người quản lý công ty.
Vấn đề đưa kiến nghị vào chương trình họp ĐHĐCĐ: Đối với những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của người quản lý và những giao dịch có khả năng tư lợi thì không nên hạn chế đưa vào chương trình họp trong bất kỳ cuộc họp nào, dù cho không đúng với nội dung thông báo triệu tập cuộc họp. Bởi nếu thế có thể sẽ gây tốn kém thêm chi phí cho công ty khi phải chịu tập thêm cuộc họp khác, không đảm bảo được tính kịp thời trong việc ngăn chặn hành vi sai trái gây thiệt hại cho công ty. Do đó, khi triển khai Luật Doanh
nghiệp 2005, các văn bản hướng dẫn nên quy định rò điểm a, khoản 3, điều 99 theo hướng trên.
Về cơ chế đảm bảo các quyền thông tin của cổ đông: Luật Doanh nghiệp 2005 nên bổ sung quy định trách nhiệm đối với người quản lý thông tin khi người này ngăn cản việc thực thi quyền tiếp cận thông tin của cổ đông, cũng như quy định thêm quyền khởi kiện của cổ đông khi họ bị vi phạm quyền tiếp cận thông tin.
Bên cạnh đó, khi triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp 2005 cần quy định rò những thông tin nào thuộc về bí quyết kinh doanh không được tự do nắm bắt và tán phát. Trên cơ sở đó, quy định những thủ tục cần thiết để đảm bảo việc ngăn ngừa việc lạm dụng quyền này gây bất lợi cho cong ty.
Về quyền ứng cử thành viên HĐQT và BKS của cổ đông: LDN 2005 nên bổ sung quy định cho phép những cổ đông quy định tại khỏa 2, điều 79 LDN 2005 được quyền tự ứng cử thành viên HĐQT và BKS, nếu họ đồng thời thỏa mãn các điều kiện về ứng viên của cơ quan mà họ muốn ứng cử. Điều này được thực thi sẽ mở rộng khả năng thực thi quyền giám sát của cổ đông. Từ đó đảm bảo tốt hơn quyền lợi của cổ đông.
Về việc thực thi quyền đề cử thành viên HĐQT và BKS của cổ đông: LDN 2005 nên bỏ thủ tục quyết định số lượng ứng viên của ĐHĐCĐ. Theo đó, LDN 2005 có thể quy định tỷ lệ số ứng cử viên tối đa mà mỗi nhóm cổ đông có thể đề cử trên tổng số ứng viên cần đề cử theo tỷ lệ phần trăm cổ phần nắm giữ. Việc xác định số lượng ứng viên cần đề cử để bầu vào vị trí trên là do điều lệ công ty quy định. Trên cơ sở số lượng cổ phần mà mình nắm giữ, tỷ lệ số ứng viên tối đa theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ và số ứng viên cần đề cử mà Luật và điều lệ quy định.
3.2.3. Cải cách các quy định pháp luật để tập đoàn kinh tế nhà nước phải bao gồm các doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
Cơ cấu tổ chức cần tinh gọn, chức năng, nhiệm vụ của các ban thuộc
công ty mẹ phải rò ràng, tránh sự trồng chéo. Giữa các ban phải có sự mối quan hệ chặt chẽ: Ban Tài chính kế toán, Ban Kinh doanh...
Để tránh sự mối mối quan hệ mờ nhạt giữa công ty mẹ - công ty con và giữa các công ty con với nhau cần loại bỏ phương thức thành lập TĐKTNN bằng cách gom các TCT nhà nước hoạt động trong ngành, lĩnh vực tương đồng vì chỉ là gon đầu mối và lựa chọn công ty làm công ty mẹ.
Xây dựng quy chế chung đặc thù phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp thành viên với nhau của TĐKTNN. Quy chế này bao gồm các mối mối quan hệ đặc thù về: Mối quan hệ giao dịch kinh doanh nội bộ, mối quan hệ tài chính nội bộ, mối quan hệ về thông tin các doanh nghiệp thành viên, cụ thể:
Về mối quan hệ giao dịch kinh doanh nội bộ: Trong nội bộ Tập đoàn, các loại giao dịch kinh doanh như mua bán hàng hóa, cung cấp và nhận các dịch vụ, cho thuê, chuyển giao nghiên cứu và phát triển, nhượng quyền thương mại… phải có những đặc thù gì so với các doanh nghiệp bên ngoài Tập đoàn, phải kết hợp hỗ trợ trong hoạt động sản xuất. Có những nguyên tắc thỏa thuận dài hạn, ổn định và thường xuyên để các doanh nghiệp ưu tiên mua bán, đặt hàng trong nội bộ hoặc mua bán hàng hóa với nhau theo mức giá thấp hơn so với giá thị trường:
Đối với các TĐKTNN mà mỗi công ty con là một khâu trong dây chuyền sản xuất kinh doanh của tập đoàn, thì cần hình thành quy chế hợp tác phối hợp giữa các công ty con với nhau. Trong trường hợp này, cần quy định rò về chất lượng sản phẩm dịch vụ, giá chuyển giao nội bộ.
Đối với các TĐKTNN mà mỗi công ty con là đơn vị kinh doanh độc lập tương đối, thì công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên đều là chủ thể độc lập trong thị trường, hoạt động theo mục tiêu thị trường. Các giao dịch kinh doanh trong nội bộ TĐKTNN cần phải tuân thủ quy tắc thị trường, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi, song cũng cần có những
ưu đãi theo những điều kiện nhất định, không vi phạm nguyên tắc thị trường và hội nhập quốc tế.
Mối quan hệ tài chính nội bộ: Phải xây dựng quy chế tài chính chung của tập đoàn, của tất cả các doanh nghiệp. Có hai phương pháp tiếp cận trong quản lý tài chính của tập đoàn, đó là cách tiếp cận tập trung và cách tiếp cận phân cấp. Cách tiếp cận tập trung yêu cầu tất cả các thành viên của tập đoàn sử dụng chung một phần mền máy một phần mềm máy tính, một phương thức hạch toán và các thành viên định kỳ báo cáo lên công ty mẹ. Cách tiếp cận phân cấp yêu cầu các công ty con báo cáo đến các chi nhánh ở từng khu vực. Trong điều kiện các TĐKTNN hiện nay, khi xây dựng các quy định về quy chế tài chính trong TĐKTNN nên yêu tiên cách tiếp cận này do các tập đoàn chủ yếu hoạt động trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, hoặc sang một số thị trường nước ngoài.
Công ty mẹ cần thiết lập các chính sách và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chính. Các giao dịch tài chính giữa các doanh nghiệp trong tập đoàn phải được báo cáo đầy đủ và công khai. Công ty chịu trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát hiệu quả kinh tế và tình hình đảm bảo giá trị, giá trị gia tăng.
Mối quan hệ về thông tin các doanh nghiệp thành viên: Mối quan hệ này phải được hình thành cả theo trục dọc Công ty mẹ - công ty con và trục ngang giữa các doanh nghiệp thành viên khác với nhau. Hình thức trao đổi thông tin không chỉ dựa vào chế độ báo cáo mà phải phải đa dạng bằng nhiều hình thức.
Có hai phương thức xây dựng quan hệ thông tin giữa công ty mẹ và công ty con. Một là, sử dụng phương thức chính thức với thẩm quyền của chủ đầu tư, cổ đông và đại diện của doanh nghiệp tại ban quản lý điều hành ở từng doanh nghiệp thành viên. Hai là, xay dựng chế độ thông tin theo cơ chế hiệp thương trao đổi bàn bạc phi chính thức trong tập đoàn.