Kinh Nghiệm Nước Ngoài Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Các Tổng Công Ty Và Tập Đoàn Kinh Tế Và Những Vấn Đề Rút Ra Có Thể Nghiên Cứu Đối Với Việt

- Các công ty con, nhà nước thông qua công ty mẹ đầu tư hơn 50% vốn điều lệ. Nhà nước cần phân định rõ phần vốn đầu tư cho công ty mẹ và phần vốn đầu tư cho các công ty con.

- Đối với các công ty con có cổ phần của Nhà nước được thành lập thông qua cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cần có sự giao nhận vốn giữa cơ quan quản lý vốn nhà ở doanh nghiệp với công ty.

Điều quan trọng là có quy chế cụ thể và quy trình, thủ tục đơn giản, chính xác, chống thất thoát tài sản nhà nước, biến tài sản của nhà nước trong TĐKT thành vô chủ.

Năm là, cử đại diện nhà nước trực tiếp quản lý doanh nghiệp trong

TĐKT.

- Đối với công ty mẹ Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ, Nhà nước bổ

nhiệm HĐQT, chủ tịch HĐQT, và xem xét, chấp thuận để HĐQT bổ nhiệm Tổng giám đốc. Trong đó chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc điều hành trực tiếp ký nhận vốn Nhà nước cấp và chịu trách nhiệm về toàn bộ số vốn của Nhà nước ở Công ty.

- Đối với công ty con Nhà nước đầu tư hơn 50% vốn điều lệ, đại hội đồng cổ đông bầu HĐQT cũng có nghĩa là Nhà nước bổ nhiệm chủ tịch HĐQT, bởi lẽ Nhà nước giữ tỷ lệ vốn chi phối: Chủ tịch HĐQT trực tiếp ký nhận phần vốn nhà nước cấp và chịu trách nhiệm về toàn bộ phần vốn của Nhà nước ở công ty.

- Đối với các công ty khác, tuỳ theo tỷ lệ vốn góp để Nhà nước cử đại diện vào HĐQT hoặc ban giám đốc điều hành. Người được cử chịu trách nhiệm toàn bộ về phần vốn của Nhà nước ở doanh nghiệp. Điều quan trọng là có quy định cụ thể về trách nhiệm vật chất, khi tài sản của Nhà nước bị thất thoát. Đồng thời tạo lập cơ chế để các cán bộ này có điều kiện phát huy triệt để năng lực trong việc quản lý điều hành công ty ngày càng phát triển. Thực hiện điều đó cần hạn chế sự can thiệt hành chính của cơ quan nhà nước đối với cán bộ quản lý do Nhà nước cử vào các công ty trong TĐKT.

Sáu là, phê duyệt cơ chế tài chính của TĐKT.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Để quản lý tài chính đối với TĐKT, với cương vị Nhà nước là chủ sở hữu vốn, Nhà nước phê duyệt cơ chế tài chính của TĐKT là cần thiết.

Trên cơ sở các văn bản pháp luật và chính sách về tài chính, các chuẩn mực trong quản lý tài chính doanh nghiệp nói chung. TĐKT xây dựng cơ chế tài chính nội bộ và trình nhà nước phê duyệt. Đồng thời thông qua đại diện chủ sở hữu hoặc người được cử vào quản lý phần vốn nhà nước trong tập đoàn kinh tế để Nhà nước quản lý quá trình tạo lập vốn, quá trình đầu tư, quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, quá trình vận động của các quan hệ tài chính… theo cơ chế tài chính tập đoàn kinh tế.

Quản lý nhà nước đối với TCT90-91 theo hướng hình thành TĐKT - 8

Nội dung cơ chế tài chính của tập đoàn kinh tế gồm các vấn đề như cơ chế huy động vống, điều hoá vốn; cơ chế quản lý tài sản; quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận; quản lý về đầu tư; kiểm soát tài chính. Vấn đề quan trọng là tuỳ đặc điểm mô hình tổ chức và tính chất hoạt động của mỗi TĐKT cụ thể mà chủ sở hữu vận dụng xây dựng cơ chế tài chính và quản lý cho thích hợp, hiệu quả.

Những nội dung trên phải được thực hiện theo nguyên tắc “Mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp”. Nhà nước không trực tiếp áp đặt hành chính, can thiệp sâu vào hoạt động của các TĐKT sau khi chuyển đổi. Đồng thời phải bảo đảm cho hoạt động của các đơn vị trong TĐKT được ổn định không xáo trộn.


1.3. Kinh nghiệm nước ngoài về quản lý nhà nước đối với các Tổng công ty và Tập đoàn kinh tế và những vấn đề rút ra có thể nghiên cứu đối với Việt Nam

1.3.1. Kinh nghiệm các nước

1.3.1.1 Hàn Quốc

Chiến lược phát triển của Hàn Quốc là định hướng xuất khẩu. Chính phủ Hàn Quốc và giới kinh doanh đã có mối quan hệ rất chặt chẽ trong việc thực hiện chiến lược định hướng xuất khẩu này. Tổng thống Pax Chung Hee nghĩ rằng các doanh nghiệp lớn là “không thể thiếu”, cho tăng trưởng kinh tế khi khu

vực doanh nghiệp lớn được định hướng thông qua các mục tiêu quốc gia. Định hướng này đã gây trở ngại cho hành vi của doanh nghiệp. Vào những năm 1950, viện trợ nước ngoài, những khoản hỗ trợ đặc biệt khác của Chính phủ được phân bổ trên cơ sở ưu tiên cho những công ty đặc biệt có quan hệ gần gũi với Chính phủ. Vì các cơ quan thuế không nắm được luồng vốn chu chuyển giữa các công ty chi nhánh của các công ty lớn, gọi là “chaebol”, một số công ty lớn đã lợi dụng được nhiều hơn các “khoản ưu đãi đặc biệt” đó thông qua việc mua cổ phần của các công ty và phát triển thành các “chaebol”. Năm 1976, 10 chaebol lớn nhất chiếm 19,8% GNP, nhưng đến năm 1984 tỷ trọng này đã lên tới 67,4%. Một khi tổ chức theo kiểu chaebol bắt đầu lớn mạnh, các chiến lược phát triển định hướng tăng trưởng và định hướng xuất khẩu ngày càng trở nên phụ thuộc nhiều vào các tập đoàn này. Các doanh nghiệp lớn hoặc nhỏ, nhưng không phải thành viên của các chaebol, phải nhanh chóng rút khỏi thị trường trong nước.

Quá trình phát triển kinh tế theo chu kỳ của Hàn Quốc đã ảnh hưởng theo chu kỳ đến sự tồn tại và lớn mạnh của các chaebol. Khi chính phủ thay đổi chính quyền mới bao giờ cũng tiến hành đánh giá vai trò và ảnh hưởng của các chaebol, và nền kinh tế dần lắng xuống. Nhưng khi nền kinh tế bị lâm vào trì trệ, thất nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ (chứ không phải các chaebol) phá sản và các vấn đề xã hội xảy ra, Chính phủ lại phải tìm cách kích thích nền kinh tế, hỗ trợ các chaebol. Hơn nữa, bản thân các chaebol cũng tìm cách vận động Chính phủ thực hiện chính sách kích cầu vì khi nền kinh tế tăng trưởng dẫn đến giảm doanh thu của các chaebol và đe doạ đến hoạt động của chúng.

Cho đến gần đây, chính phủ Hàn Quốc vẫn duy trì tình trạng hạn chế phổ biến thông tin và kiểm soát trực tiếp việc cấp vốn cho các doanh nghiệp. Chính phủ cố gắng hướng các chaebol vào các ngành công nghiệp mục tiêu bằng cách đảm bảo lợi tức cao cho các công ty lớn đã được vay vốn thường xuyên. Từ năm 1972 đến 1980, trung bình 47,7% tín dụng trong nước đã được sử dụng cho vay chính sách, và cũng trong giai đoạn này, chênh lệch giữa lãi suất cho vay theo chính sách và lãi suất chung trên thị trường là 5%.

1.3.1.2 Nhật Bản

Bắt đầu vào những năm 1950, ngoài các khoản trợ cấp, Nhật Bản áp dụng một số biện pháp đối với toàn khu vực công nghiệp hoặc cho một số ngành cụ thể (ví dụ ngành được quy định trong Luật về Các biện pháp tạm thời thúc đẩy một số ngành cơ khí) nhằm hỗ trợ về vốn cho phát triển kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng của mình như từ Ngân hàng Phát triển Nhật bản, Công ty Tài chính, Doanh nghiệp nhỏ và các tổ chức tài chính khác của Chính phủ. Bên cạnh đó, Nhật Bản đã áp dụng các biện pháp nhằm duy trì thuế nhập khẩu thấp đối với nguyên liệu và các sản phẩm sơ chế khác, và cao đối với sản phẩm được chế biến nhiều hơn. Đánh giá về các chính sách của Chính phủ đối với quá trình phát triển công nghiệp của Nhật Bản, có ý kiến cho rằn yếu tố lớn nhất đó là cạnh tranh giữa các hãng, nhưng chính sách công nghiệp có ảnh hưởng lớn đối với cơ cấu cạnh tranh… Lãi suất cho vay thấp của các tổ chức tài chính Chính phủ, sự hỗ trợ trong việc giới thiệu công nghệ nước ngoài, và các biện pháp khác nhằm hỗ trợ các ngành công nghệ sản xuất linh kiện đã tạo nhiều điều kiện cho việc giảm chi phí sản xuất linh kiện và cải tiến chất lượng sản phẩm.

Cho đến nay Chính phủ Nhật Bản vẫn kiểm soát rất chặt thị trường vốn. Do các hạn chế khắc nghiệt đối với thị trường chứng khoán, việc thu hút đầu tư qua hình thức cổ phần rất tốn kém và các hãng chủ yếu dựa vào vay vốn của các ngân hàng. Nhiều hãng cùng vay vốn từ một ngân hàng đã có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, và hình thành nên các tập đoàn, gọi là keiretsu (trước chiến tranh zaibatsu). Ngân hàng tài trợ cho các công ty thành viên có một vai trò rất quan trọng. Ngân hàng thực hiện chức năng kiểm soát các công ty thành viên nhằm đảm bảo các công ty được quản lý tốt. Các công ty thành viên trong tập đoàn vừa cạnh tranh, vừa hợp tác với nhau. Ở Nhật bản cạnh tranh và hợp tác được tổ chức rất khác nhau, khó có thể nói cạnh tranh hay hợp tác mạnh hơn. Theo Morikawa “zaibatsu gồm nhiều nhóm doanh nghiệp, các doanh nghiệp trong nhóm cạnh tranh với nhau khốc liệt, nên Nhật Bản phát triển cái gọi là chủ nghĩa tư bản quản lý cạnh tranh”. Cũng có thể có nhiều thoả thuận móc ngoặc trong zaibatsu, nhưng cạnh tranh vẫn là chính. Sau chiến tranh, trong nội bộ tập đoàn

các doanh nghiệp càng cố gắng hơn nhằm bảo đảm phối hợp các quy trình và thông tin nhưng không buộc phải có một chiến lược thống nhất duy nhất. Các hãng trong một keiretsu không phải tuân thủ theo một chiến lược tổng thể nhưng không khuyến khích đi chệch chiến lược tổng thể đã đề ra để tránh gây “phiến toái” cho các thành viên khác trong nhóm. Kinh nghiệm, tri thức, quan hệ cá nhân, kiểm soát chất lượng và lòng tin đã được xây dựng từ lâu trong mỗi nhóm gây trở ngại cho người ngoài gia nhập nhóm.

1.3.1.3 Indonesia.

Với các chính sách bảo hộ công nghiệp, cung cấp các khoản tài chính bao cấp và dành độc quyền cho một số công ty. Chính phủ Indonesia đã tạo nhiều điều kiện cho các loại hình kinh doanh lớn (tập đoàn) phát triển vào những năm 1960 và 1970. Vào những năm đó, khu vực kinh tế nhà nước giữ một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế Indonesia. Các TĐKT của người Hoa đặc biệt phát triển mạnh. Mặc dù chỉ chiếm 3% dân số, tập đoàn Hoa Kiều kiểm soát mạnh mẽ khu vực kinh doanh thương mại lớn, hiện đại, đặc biệt là các TĐKT mới hình thành. Một số người “cảm thấy các conglomerate Hoa Kiều thành công đó có quan hệ rật chặt chẽ với họ hàng và mở rộng hoạt động của mình làm tổn hại đến các công ty vừa và nhỏ”. Tuy nhiên, nhiều nhà hoạc định chính sách của Indonesia bảo vệ quan điểm bảo hộ và ưu tiên phát triển kinh doanh lớn theo kiểu tập đoàn. Họ cho rằng việc hình thành các TĐKT lớn đa dạng là cực kỳ quan trọng cho việc tận dụng lợi thế của tính kinh tế theo quy mô và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Đầu năm 1980, ngày càng có nhiều tập đoàn lớn (conglomerate) được hình thành chủ yếu nhờ có được các giấy phép nhập khẩu. Sau khi tiến hành tư nhân hoá các cơ sở nhà nước và các tổ chức tài chính quốc doanh phi ngân hàng, các tập đoàn lại càng phát triển mạnh hơn. Một số tập đoàn được hình thành để tìm kiếm các khoản lợi nhuận từ những méo mó thị trường do chính sách gây ra. Các tập đoàn ngày càng lớn mạnh cả trong ngành tài chính vì các ngân hàng tư nhân hiện có các chi nhánh hoạt động về bảo hiểm, hợp đồng thuê mua đất, mua nợ, ký quỹ, môi giới và buôn bán.

1.3.1.4 Malaysia

Để thực hiện kế hoạch kinh tế quốc gia và tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp mới, như ngành chế tạo ô tô, điện tử… Chính phủ Malaysia đã thành lập các công ty quốc doanh, bao gồm các công ty của Chính phủ, các công ty công, theo luật công ty ban hành năm 1965. Năm 1969 một công ty nhà nước lớn (PERNAS) được thành lập thâu tóm cổ phần của nhiều công ty nước ngoài mạnh, và tham gia vào hoạt động nâng cấp hạ tầng cơ sở kinh tế (đường, cấp nước…) và xã hội (giáo dục, bảo hiểm). Tuy nhiên, đến cuối thập kỷ 1970 Malaysia đã tiến hành tư nhân hoá khu vực kinh tế quốc doanh. Sau khi được tư nhân hoá, một số công ty quốc doanh cũ đã phát triển trở thành các tập đoàn lớn. Chính sách phát triển công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp mới, mang tính công nghệ cao không phải chỉ dựa vào các tập đoàn lớn, mà tạo điều kiện cho cả các doanh nghiệp nhỏ được tham gia thông qua “Chương trình phát triển doanh nghiệp nhỏ”. Chương trình này được thiết kế nhằm xác định các doanh nghiệp nhỏ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát triển dưới sự hỗ trợ của các công ty lớn trong nước và nước ngoài gọi là “các công ty mỏ neo”.

1.3.1.5 Trung Quốc

Tiến trình thành lập tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc diễn ra trong suốt ¼ thế kỷ, từ năm 1978 đến nay. Theo tác giả Baoxi Xu và Minggao Shen thì tiến trình thành lập tập đoàn doanh nghiệp ở Trung Quốc cho đến nay đã trải qua 5 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Sự phôi thai của tập đoàn doanh nghiệp

Đặc điểm chính của giai đoạn này là tạo điều kiện cho việc cùng quản lý giữa các doanh nghiệp có liên quan mà không làm thay đổi cơ cấu sở hữu. Kể từ năm 1978, cải cách doanh nghiệp đã mang lại nhiều quyền tự chủ hơn choc ác DNNN. Các lãnh đạo doanh nghiệp đã bắt đầu chịu trách nhiệm tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trở nên quan trọng đối với sự tồn tài và phát triển của doanh nghiệp. Đầu năm 1980, Quốc vụ viện Trung Quốc đã thực hiện chính sách nhằm “tận dụng các lợi thế so sánh xây

dựng một môi trường cạnh tranh và thúc đẩy sự hợp tác”, theo đó có nhiều tập

đoàn dựa trên việc quản lý đã được thành lập.

Giai đoạn 2: Sự xuất hiện các tập đoàn doanh nghiệp

Vào ngày 23/3/1996 Quốc vụ viện đã ban hành một văn bản chính thức là “Quy chế thúc đầy liên kết và hợp tác kinh tế theo chiều ngang”. Các DNNN được khuyến khích thành lập các tập đoàn doanh nghiệp mà không có bất kỳ một hạn chế nào về địa bàn, lĩnh vực và ngành nghề. Đây là văn bản pháp luật về liên kết theo chiều ngang rất phổ biến.

Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “tập đoàn doanh nghiệp” xuất hiện trong văn bản chính thức của Chính phủ và có nghĩa là đánh dấu sự ra đời của tập đoàn doanh nghiệp tại Trung Quốc. Vào cuối năm 1996 đó có tới 3100 loại hình tổ chức liên kết doanh nghiệp khác nhau trong ngành và lĩnh ực. Một thời gian ngắn sau đó, hầu hết đều trở thành các tập đoàn doanh nghiệp. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực sản xuất và sau đã lan sang các lĩnh vực khác như nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, cung cấp nguyên liệu thô, bán sản phậm, tiếp cận các nguồn vốn tín dụng đầu tư và dịch vụ chia sẻ thông tin. Trên cơ sở những lĩnh vực này, nhiều đơn vị, dù có quan hệ chặt chẽ hay lỏng lẻo, đều liên kết với thông qua đồng vốn, sản phẩm, công nghệ, chiến lược phát triển, dịch vụ, thông tin… Việc hình thành sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và sau đó là các tập đoàn doanh nghiệp đã làm giảm đáng kể sự can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp, phát triển thị trường khu vực và phá vỡ sự xé lẻ theo lĩnh vực của hệ thống kế hoạch hoá.

Giai đoạn 3: Sự hình thành các tập đoàn doanh nghiệp

Tuy nhiên, các doanh nghiệp có thể thiết lập hợp tác chiến lược nhưng không được phép tái cơ cấu để tận dụng những lợi thế của việc liên kết. Để giải quyết vấn đề này, vào tháng 12/1987 Uỷ ban cải cách cơ cấu Nhà nước và Uỷ ban kinh tế nhà nước đã đưa ra một văn bản “Đề xuất thành lập và phát triển các tập đoàn doanh nghiệp”. Nội dung chủ yếu gồm các vấn đề sau:

- Lý do thúc đẩy hình thành các tập đoàn doanh nghiệp là để thống trị thị trường bị phân cách, cải cách các DNNN đã tự đảm bảo hoạt động cho mình, tái cơ cấu các ngành, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cùng với quá trình chuyên môn hoá, tận dụng những lợi thế của tính kinh tế theo quy mô và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quảm thúc đẩy đổi mới công nghệ, và củng cố công nghệ cho các doanh nghiệp, và do đó sẽ nâng cao khả năng cạnh trah của doanh nghiệp.

- Thực hiện nguyên tắc cùng có lợi, tự do tham gia và rút khỏi, và chống lại độc quyền trong hoạt động

- Việc thành lập các tập đoàn doanh nghiệp cần đảm bảo các đòi hỏi là: cấu trúc doanh nghiệp, có cấp độ, tập đoàn doanh nghiệp được phép trong đầu tư, sở hữu tài sản, có các chiến lược kinh doanh và marketing. Đồng thời, tập đoàn doanh nghiệp cũng khai thác được khả năng thành lập các công ty cổ phần, tách rời sở hữu với quản lý.

- Các chính sách đặc biệt thúc đẩy sự hình thành các tập đoàn doanh nghiệp bao gồm: Tập đoàn doanh nghiệp được tự chủ trong quản lý, có quyền định giá, quyền quyết định bán ở đâu, đầu tư vào đâu và sản xuất cái gì, quyền sản xuất sản phẩm và nhập khẩu công nghệ nước ngoài.

Giai đoạn 4: Chính thức hoá các tập đoàn doanh nghiệp

Để thúc đẩy sự phát triển các tập đoàn doanh nghiệp, vào tháng 12/1991 Quốc vụ viện đã phê chuẩn báo cáo về “Đề án thí điểm tập đoàn doanh nghiệp “ do Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Uỷ ban cải cách cơ cấu nhà nước và Văn phòng sản xuất của Quốc vụ viện cùng đệ trình. 57 tập đoàn doanh nghiệp đã được lựa chọn để thí điểm. Mục tiêu chủ yếu của việc thí điểm là xác định những mô hình hiệu quả cho tập đoàn doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách để đưa ra các chính sách thuận lợi cho tập đoàn doanh nghiệp và thúc đẩy mạnh hơn sự phát triển của các tập đoàn doanh nghiệp.

Những chính sách thuận lợi này là nhằm mục tiêu giao thêm quyền tự chủ cho các tập đoàn doanh nghiệp, cho phép chúng trở thành đơn vị lập kế hoạch độc lập không phụ thuộc vào chính quyền địa phương và các cơ quan hành

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 09/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí