Với định hướng phát triển kinh tế ấy, trong một thời gian ngắn sau khi giành độc lập, Ấn Độ đã tạo được một nền kinh tế phát triển khá đồng bộ. Từ những năm 1950 đến 1970, Ấn Độ chủ trương phát triển hướng nội, đạt mức tăng GDP bình quân là 3,5%. Từ 1978 đến 1980, do thiên tai hạn hán và do sự mất ổn định về chính trị, thể hiện ở việc chuyển hướng trọng tâm phát triển kinh tế của thủ tướng Desai đã khiến cho cơ cấu kinh tế của Ấn Độ bị đảo lộn. Trong năm 1979, sản xuất công nghiệp giảm 1,7%, lương thực dự trữ còn quá ít, lạm phát tăng ở mức độ phi mã, nền kinh tế lâm vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn. Sau giai đoạn khó khăn ấy, đầu những năm 1980, Ấn Độ chuyển sang chiến lược hỗn hợp, nửa kế hoạch nửa thị trường, bước đầu thực hiện tự do hóa, GDP tăng lên và đạt khoảng 5,7%/năm. Mô hình kinh tế tự lực cánh sinh của Ấn Độ đã được nhiều nước thuộc thế giới thứ 3 học tập; bởi sau hàng thế kỷ bị thực dân đô hộ, các thuộc địa cũ đang tìm con đường vươn lên và mô hình kinh tế Ấn Độ hứa hẹn một hướng đi đầy triển vọng. Nhưng nền kinh tế kế hoạch hóa theo kiểu Xô Viết sau một thời gian hoạt động tương đối hiệu quả đã bắt đầu bộc lộ những khiếm khuyết không thể khắc phục nổi. Sự phát triển theo chiều hướng tự lực tự cường, hướng nội đã bộc lộ sự trì trệ, yếu kém và kìm hãm kinh tế đất nước.
Có thể khái quát lại rằng, từ sau khi giành được độc lập năm 1947 cho đến năm 1990, Ấn Độ áp dụng một chiến lược tăng trưởng do Chính phủ trực tiếp kiểm soát và điều hành. Kết quả của đường lối kinh tế đóng và kế hoạch hóa đã đưa Ấn Độ đến 3 điểm bất hợp lý:
Thứ nhất là quá tập trung vào khu vực sở hữu Nhà nước. Chính phủ Trung Ương sở hữu khoảng 240 doanh nghiệp không kể những ngành truyền thống vốn vẫn thuộc sự quản lý của Nhà nước như đường sắt và dịch vụ công cộng. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong một thị trường hoàn toàn được bảo hộ, không phải chịu bất cứ một cuộc cạnh tranh nào. Kết quả là khu
vực kinh tế Nhà nước không có động cơ để hoạt động hiệu quả, không đáp ứng nổi nhu cầu của khách hàng và ngày càng trở nên thua lỗ.
Thứ hai là do hệ thống “Cai trị toàn quyền qua giấy phép”. Đây là một hệ thống kiểm soát và cấp phép phức tạp, bất hợp lý, khó hiểu; thực hiện kiểm soát mọi bước đi trong sản xuất, đầu tư và đầu tư nước ngoài [8]. Với mục tiêu là nắm giữ mọi thứ và cân bằng lợi ích kinh tế quốc gia; hệ thống đã biến thành một bộ máy chuyên quyền và độc đoán, bất cứ quyết định nào cũng phải được chính quyền thông qua và đều phải cần tới giấy phép. Những điều luật trong hệ thống đã vô tình khiến các doanh nghiệp trở nên quan liêu vì phải tìm cách “đi đường vòng” và tình trạng hối lộ là không thể tránh khỏi. Có thể thấy rằng, một cuộc khủng hoảng đã bắt đầu manh nha trên một nền tảng kinh tế trì trệ và khép kín, lại bị xói mòn bởi tệ quan liêu và tham nhũng.
Thứ ba là không chú trọng đến thương mại quốc tế. Ấn Độ áp dụng các chính sách tự cung tự cấp và hướng nội vốn đã rất phổ biến trong những năm 1950 và 1960. Bằng việc từ chối thương mại và đầu tư nước ngoài, Ấn Độ đã tự loại mình ra khỏi nền kinh tế thế giới. Để bảo vệ công nghiệp sản xuất của mình, Ấn Độ triệt để hạn chế nhập khẩu. Trong thị trường bị đóng kín này, dân chúng phải mua những hàng hóa và dịch vụ rẻ mạt với giá cắt cổ. Các công ty nước ngoài như CocaCola, IBM bị buộc phải rời khỏi Ấn Độ, nhường chỗ cho các nhà cung cấp nội địa kém chất lượng. Ấn Độ đã nỗ lực phát triển một đội ngũ rất lớn các nhà khoa học và kỹ sư tài năng, song có quá nhiều trở ngại để có thể đưa những công nghệ mới áp dụng vào thực tế. Chính thái độ thù địch với đầu tư nước ngoài, hạn chế khắt khe trong thương mại quốc tế, sự triệt tiêu cạnh tranh đã đóng mọi cánh cửa đưa sự đổi mới vào quốc gia này. Ấn Độ đã tụt hậu về công nghệ và ở nguyên hiện trạng như những năm 1950- 1960. Mô hình kinh tế “Tự lực tự cường” vốn được các nước đang phát triển
rất ngưỡng mộ trong thời kỳ những năm 50-60 đã trở thành một mô hình tự cung tự cấp, hạn chế quan hệ với bên ngoài, kìm hãm sự tăng trưởng.
Có thể bạn quan tâm!
- Quá Trình Lựa Chọn Lý Thuyết Phát Triển Của Ấn Độ
- Cơ Sở Thực Tiễn Của Quá Trình Cải Cách Kinh Tế Ở Ấn Độ
- Số Lượng Mặt Hàng Trong Danh Mục Được Phép Nhập Khẩu
- Sự Thay Đổi Tỷ Trọng Các Ngành Trong Cơ Cấu Kinh Tế
- Chính Sách Cải Cách Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn
- Chính Sách Ngoại Thương Trong Quá Trình Tự Do Hóa Và Mở Cửa
Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.
Đến năm 1991, Liên bang Xô Viết sụp đổ, hình mẫu lý tưởng của Ấn Độ về kế hoạch hóa và tự lực cánh sinh tan vỡ. Được kế hoạch hóa bởi một cơ chế quản cực kỳ quan liêu và bị chia cắt khỏi mậu dịch thế giới, nền kinh tế Ấn Độ tăng trưởng ỳ ạch, các công ty cạnh tranh không hiệu quả. Các ngành kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước ngày càng lớn lên; theo đó là hệ thống bao cấp nặng nề từ vốn đầu tư, vốn ngân sách, thuế, tài chính cho vay…đến lương công chức cao mặc dù lợi tức kinh doanh thấp, đã làm cho khu vực này hoạt động càng thêm kém hiệu quả. Đầu những năm 1990, gần một nửa số công ty thuộc sở hữu Nhà nước đã bị nợ đến gần 1 tỷ USD. Trong khi đó, các công ty tư nhân chẳng những đã không được bao cấp mà còn phải chịu những khoản tiền rất lớn cho các hoạt động đầy quan liêu như chạy giấy tờ, chạy thủ tục kinh doanh…
Năm 1991, kinh tế Ấn Độ rơi vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc chưa từng có; hơn 30 triệu người thất nghiệp, nợ nước ngoài lên đến gần 70 tỷ USD (khoảng 23% GDP), dự trữ ngoại tệ suy giảm, GDP giảm xuống mức 0,8%, lạm phát ở mức ngoài tầm kiểm soát, nền kinh tế quốc dân thực sự đang đứng bên bờ vực thẳm.
Để cứu vãn tình thế, Chính phủ phái cầu viện đến WB và IMF bằng một khoản vay lớn đến gần 7 tỷ USD với đòi hỏi kèm theo là Chính phủ phải giải trình về hướng đi của nền kinh tế. Như vậy, rò ràng không thể còn con đường nào khác, Chính phủ Ấn Độ phải thực sự bắt đầu một Chương trình cải cách để nhanh chóng ổn định nền kinh tế, cải cách thể chế kinh tế bên trong một cách toàn diện, củng cố niềm tin trong nước và quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu ở chương 1 có thể rút ra một số kết luận sau:
Chương 1 đã tập trung đi sâu phân tích dòng lý thuyết mới về chính sách chiến lược ở các nước đang phát triển là Cấu trúc luận, lý thuyết về Sự phụ thuộc và chủ nghĩa Tự do mới. Đây chính là những cơ sở lý luận làm nền tảng trực tiếp cho các nước đang phát triển trong đó có Ấn Độ căn cứ vào khi hoạch định chính sách phát triển kinh tế của mình.
Bên cạnh đó, chương 1 đã đưa ra những cơ sở thực tiễn bên trong và cơ sở thực tiễn bên ngoài làm tiền đề cho Ấn Độ thực hiện công cuộc cải cách kinh tế. Trong ba thập niên, từ những năm 50 đến những năm 70, Ấn Độ phát triển theo chiến lược hướng nội dựa trên nguyên tắc tự lực cánh sinh; thể hiện ở chính sách bảo hộ mạnh mẽ công nghiệp trong nước, đề cao khu vực quốc doanh, coi nhẹ vai trò của tư nhân trong nước và tư bản nước ngoài. Sau giai đoạn khó khăn năm 1979, đến đầu những năm 1980, Ấn Độ chuyển sang chế độ hỗn hợp, nửa kế hoạch - nửa thị trường, nửa hướng nội - nửa hướng ngoại, bước đầu thực hiện tự do hóa. Có thể nói rằng, quá trình tự do hóa xuất hiện trong thập niên 80 chính là bước đi ban đầu của công cuộc cải cách kinh tế đồng bộ và toàn diện năm 1991 sau này. Từ khi giành độc lập cho đến trước khi tiến hành cải cách năm 1991, nền kinh tế phát triển theo định hướng như trên đã đạt một số thành tựu nhất định. Trong nông nghiệp, Ấn Độ đã có thể tự túc lương thực và có một phần để xuất khẩu. Trong công nghiệp, đã hội tụ đủ những ngành công nghiệp cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động ngoại thương và đầu tư nước ngoài cũng đạt một số thành tựu khả quan.
Tuy nhiên, kết quả của nền kinh tế đóng và kế hoạch hóa do Nhà nước điều hành trực tiếp tồn tại 3 điểm bất hợp lý; thứ nhất là quá chú trọng vào khu vực sở hữu Nhà nước, thứ hai là chế độ cấp phép phức tạp và bất hợp lý, thứ ba là không chú trọng đến thương mại quốc tế. Do đó, đến những năm cuối thập kỷ 80, nền kinh tế tăng trưởng chậm chạp. Đỉnh điểm là năm 1991, Ấn Độ rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Hoàn cảnh bắt
buộc đã khiến Ấn Độ không thể có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tuân thủ một chương trình cải cách và cơ cấu lại nền kinh tế. Chiến lược thay thế nhập khẩu tiêu biểu cho quan điểm tự lực tự cường đã thất bại, thể hiện rò ở cuộc khủng hoảng ngân sách nặng nề năm 1991 khiến Ấn Độ không thể bảo thủ mãi với đường lối hướng nội của mình. Đây chính là cơ sở thực tiễn bên trong và là nguyên nhân nội tại. Cùng với những cơ sở thực tiễn bên ngoài như sự thành công của các nước công nghiệp mới ở Đông Á, thành công của cải cách kinh tế Trung Quốc, xu hướng toàn cầu hóa và hợp tác kinh tế quốc tế trên quy mô toàn cầu…như đã nêu trên chính là những nguyên nhân và động lực cho Ấn Độ tiến hành cải cách, hướng nền kinh tế phát triển theo quan điểm tự do hóa và mở cửa.
Ấn Độ đã cương quyết cải cách trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nền kinh tế năm 1991. Sự chuyển đổi không chỉ dừng lại ở những điều chỉnh nhỏ giọt mà phải là một cuộc cải cách toàn diện, một bước chuyển chiến lược trong chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế; từ tập trung, quan liêu, bao cấp và “tự lực cánh sinh” được thực hiện trong suốt 4 thập kỷ từ những năm 50 đến hết những năm 80 của thế kỷ 20, sang chiến lược tự do hóa và mở cửa thực hiện từ đầu những năm 90. Cuộc cải cách này khác hoàn toàn so với giai đoạn trước, nhờ sự nhận thức được nhu cầu phải thay đổi cả hệ thống quản lý nhằm tăng cường sức sống cho nền kinh tế, thực hiện tự do hóa ngay trong chính sự can thiệp của Chính phủ, mở rộng hơn nữa vai trò của thành phần tư nhân, tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế.
CHƯƠNG 2: TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ Ở ẤN ĐỘ
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ Ở ẤN ĐỘ
2.1.1. Cải cách chế độ sở hữu và phương thức điều tiết nền kinh tế
2.1.1.1 Về công cuộc cải cách kinh tế Ấn Độ
Tháng 7 năm 1991, Chính phủ quyết định thực hiện mạnh mẽ chính sách cải cách kinh tế. Có thể nói, đây là một bước chuyển rất lớn trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nói chung và chiến lược công nghiệp hóa nói riêng của Ấn Độ. Công cuộc cải cách nền kinh tế từ năm 1991 nhằm ổn định và tự do hóa nền kinh tế với những mục tiêu chính như sau:
Lấy lại cân bằng vĩ mô, kiểm soát lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách Chính phủ.
Tăng hiệu quả khu vực kinh tế quốc doanh thông qua việc cấu trúc lại khu vực này.
Giảm bớt hạn chế đối với các xí nghiệp tư nhân, khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Tự do hóa thị trường tài chính, giảm thuế quan, thúc đẩy xuất nhập khẩu.
Trong giai đoạn đầu kể từ 1991 đến 1999, Ấn Độ đã thực hiện cải cách toàn diện và đồng bộ trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế bao gồm thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng, công nghiệp, nông nghiệp…theo hướng tự do hóa thương mại, mở rộng kinh tế tư nhân, tạo động lực cạnh tranh và thị trường hóa nền kinh tế. Theo đó, nỗ lực loại bỏ những cản trở cho sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời tập trung hơn nữa vào quản lý kinh tế vĩ mô. Điều quan trọng đặt ra là phải tăng cường sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ vào
những lĩnh vực cần thiết; đồng thời, giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh vực mà tư nhân có thể đảm đương hiệu quả hơn.
Trong giai đoạn tiếp theo từ 1999 đến nay, Ấn Độ tiến hành cải cách kinh tế trong nước đi đôi với mở cửa nền kinh tế nhằm tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa Ấn Độ, với những mục tiêu cụ thể: +)Tăng cường tự do hóa trong nông nghiệp, giảm thâm hụt ngân sách, tiếp tục giảm lãi suất ngân hàng hơn nữa để khuyến khích đầu tư. +)Tăng cường vai trò của Ấn Độ trong kinh tế quốc tế thông qua đẩy mạnh xuất khẩu. +)Thúc đẩy các ngành dựa trên lao động trí tuệ đồng thời củng cố và hiện đại hóa các ngành truyền thống như dệt, da, chế biến nông phẩm và các ngành sản xuất nhỏ. +)Đẩy mạnh cơ sở hạ tầng, tập trung vào năng lượng, đường xá, cảng, viễn thông, đường sắt và hàng không. Đặc biệt, Chính phủ chú trọng cải cách kinh tế gắn với cải cách xã hội, phát triển nguồn nhân lực thông qua các chương trình giáo dục, y tế, giải quyết việc làm, hỗ trợ người nghèo…Cải cách tập trung toàn diện trên các lĩnh vực như kinh tế đối ngoại, ngân sách, tài chính, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và công nghiệp. Phương châm của Chính phủ là lãnh đạo, xây dựng chính sách điều tiết khu vực tư nhân, mang lại sự sôi động và hiệu quả cho môi trường cạnh tranh.
2.1.1.2. Chính sách Tư nhân hóa
Từ năm 1991, Ấn Độ bắt đầu triển khai một chương trình Tư nhân hóa. Mặc dù lúc đầu được gọi chệch đi thành “Thuyên giảm đầu tư” (Disinvestment) để tránh những bất ổn xã hội, nhưng thực chất thì chương trình này diễn ra rất mạnh mẽ.
Bao gồm 4 hoạt động chủ yếu như sau:
1. Giảm tỷ trọng vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp ngoài ngành chiến lược xuống tối đa còn 26%.
2. Tái cơ cấu, tăng cường các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động tốt.
3. Đóng cửa các doanh nghiệp đang làm ăn kém hiệu quả.
4. Bảo vệ tối đa lợi ích của người lao động.
Mục đích cơ bản của chương trình Tư nhân hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Ấn Độ nhằm:
Thứ nhất, chuyển phần lớn nguồn tài chính khan hiếm của Nhà nước từ các doanh nghiệp Nhà nước ngoài các ngành chiến lược sang đầu tư cho những ngành có tính ưu tiên xã hội cao hơn như giáo dục, y tế, phúc lợi, cơ sở hạ tầng xã hội và các hạ tầng thiết yếu khác.
Thứ hai, chấm dứt sự lãng phí do phải nuôi dưỡng các doanh nghiệp Nhà nước không phải chiến lược mà lại làm ăn kém hiệu quả.
Thứ ba, giảm khối lượng nợ trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ tư, tăng tính cạnh tranh và mạo hiểm của các doanh nghiệp, tạo điều kiện giải phóng các nguồn lực khan hiếm như tài chính, nhân công, thời gian, năng lượng…đang bị kẹt trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Để thực hiện những chính sách đã đề ra trong chương trình Tư nhân hóa, Chính phủ Ấn Độ đã thành lập Ủy ban Giảm đầu tư (Department of Disinvestment) để phụ trách tất cả các vấn đề liên quan đến tư nhân hóa và thực hiện các quyết định tư nhân hóa. Chính sách Tư nhân hóa này đã được áp dụng rộng rãi và thành công ở Ấn Độ; mở ra cho tư nhân những lĩnh vực mà trước đây chỉ khu vực quốc doanh nắm giữ như ngành công nghiệp nặng, ngân hàng, hàng không dân dụng, viễn thông, hàng hải, năng lượng…do đó đã có tác dụng giảm bớt những sai lệch, tăng tính cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ấn Độ cũng đã đưa ra một thời gian biểu trong quá trình giảm mức vốn của Nhà nước trong các ngân hàng quốc doanh xuống còn 33%, giúp các ngân hàng này có thể huy động thêm vốn trên thị trường.
Ngoài ra, đường lối chủ yếu của công tác tư nhân hóa ở Ấn Độ thời gian từ 2000 đến nay là hình thức Bán doanh nghiệp - là sự chuyển quyền sở