về rút ngắn thời gian thử thách hay tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo phải được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Đó chính là yêu cầu của việc đảm bảo quyền con người khi áp dụng chế định án treo trong Luật hình sự.
Bên cạnh đó, yêu cầu của việc đảm bảo quyền con người trong TTHS cũng rất quan trọng. Mỗi đạo luật được Nhà nước ban hành đều thể chế hóa ngày càng đầy đủ, cụ thể và rò ràng quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong điều kiện của Việt Nam. Hoạt động tố tụng được tiến hành nhằm bảo vệ quyền con người nhưng cũng chính trong hoạt động tố tụng này mà quyền con người dễ bị vi phạm nhất. Vì vậy, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên suốt trong BLTTHS.
Quyền con người trong tố TTHS bao gồm: Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục TTHS cụ thể; quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và các quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế TNHS phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật; quyền được suy đoán vô tội; quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; người chưa thành niên, người bị hạn chế về năng lực nhận thức hoặc điều khiển hành vi phải được áp dụng thủ tục TTHS đặc biệt; quyền kháng cáo đối với bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh chóng minh oan, quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi…
Để bảo đảm quyền của bị can, bị cáo, cũng như bảo vệ tốt hơn quyền con người trong TTHS theo đúng quy định của BLTTHS, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp, các cơ quan và người tiến hành tố tụng cần nâng cao hơn nữa những vấn đề nhận thức về quyền con người, tăng cường giáo dục quyền con người đối với người tiến hành tố tụng trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Bởi vì bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng phải áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự. Chỉ khi các chủ thể này nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc về nguyên tắc, trình tự, thủ tục cũng như áp dụng đúng những quy định của pháp luật hình sự nói chung và áp dụng án treo nói riêng trong thực tiễn thì lúc đó quyền con người của bị can, bị cáo mới được đảm bảo.
3.1.3. Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
Trong Chiến lược cải cách tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định TA có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm, cụ thể Nghị quyết xác định mục tiêu của cải cách tư pháp là: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
TA là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mà TA muốn thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tiến bộ chính vì vậy một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp đặt ra là: Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật dân sự và các thủ tục tố tụng tư pháp, cụ thể: Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và các thủ tục tố tụng tư pháp, nâng cao hiệu quả phòng ngừa và hướng thiện trong xử lý đối với người phạm tội theo hướng: Giảm áp dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng các loại hình phạt khác như: hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ.
Chính vì vậy, thực hiện tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, tố tụng hình sự mặc dù đã có những tiến bộ quan trọng, các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành có nhiều đổi mới nhưng cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách hình sự phù hợp với yêu cầu đề ra, trong đó theo hướng giảm hình phạt tù, hạn chế hình phạt tù giam. Từ đó nguyên tắc pháp chế XHCN ngày càng phải được đề cao và phát huy trên thực tế. Công tác phổ biến và giáo dục pháp luật hình sự và tố tụng hình sự được tăng cường đáng kể để nâng cao nhận thức của người dân về việc chấp hành các quy định của pháp luật từ đó nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trên thực tế. Trong hệ thống hình phạt của BLHS thì các hình phạt nặng như chung thân và tử hình có xu hướng ít được áp dụng hơn thì các hình phạt nhẹ như phạt tiền, cải tạo không giam giữ và phạt tù cho hưởng án treo lại ngày càng được các tòa án áp
dụng nhiều hơn. Xu hướng tăng cường áp dụng án treo là một xu hướng tích cực trong áp dụng pháp luật hình sự ở Việt Nam trong những năm gần đây. Điều này cho thấy, mặc dù khá coi trọng tính trừng trị, tuy nhiên, những hình phạt đã tuyên cho thấy xu hướng nhân đạo, nhân văn và hướng thiện đã thể hiện rất rò.
Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật hình sự ở nước ta nói riêng vẫn còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ, tính khả thi chưa cao nên chậm đi vào đời sống. Bên cạnh đó, việc xây dựng pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm, nhiều văn bản chất lượng chưa cao.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Hạn Chế, Sai Lầm Trong Áp Dụng Các Quy Định Về Điều Kiện Áp Dụng Án Treo
- Những Hạn Chế, Sai Lầm Trong Áp Dụng Về Hình Phạt Bổ Sung Đối Với Người Được Hưởng Án Treo
- Nguyên Nhân Của Những Bất Cập, Hạn Chế, Sai Lầm Trong Áp Dụng Án Treo Trên Địa Bàn Tỉnh Tây Ninh
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh - 10
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh - 11
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Do đó, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp trong quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nâng cao mọi mặt đời sống xã hội trong đó chú trọng pháp chế XHCN thì yêu cầu đặt ra là phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hệ thống pháp lý, trong đó có hoàn thiện quy định của hệ thống pháp luật hình sự mà án treo là một trong những chế định cần không ngừng hoàn thiện để quá trình áp dụng trong thực tiễn được chính xác, thuận lợi và dễ dàng.
Những phân tích trên cho thấy: yêu cầu đặt ra trong thời gian tới là cần phải tiến hành các công việc nhằm để đưa các quy định của BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành mới có hiệu lực trong đó có các quy định về án treo vào cuộc sống. Đồng thời cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận về án treo gắn với thực tiễn để không ngừng hoàn thiện chế định này.
Bên cạnh đó công cuộc hội nhập quốc tế ở nước ta đang được tiến hành ngày một sâu rộng. Việt Nam tham gia hiện nay là thành viên của nhiều tổ chức như: WTO, APEC, ASEAN... ký kết, tham gia nhiều điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế, hệ thống pháp luật và thể chế tư pháp Việt Nam đã có những điều chỉnh, sửa đổi, hoàn thiện khá tích cực và kịp thời để bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc pháp lý quốc tế, các cam kết quốc tế song phương và đa phương tạo động lực thúc đẩy tự do thương mại và đầu tư quốc tế, đã từng bước chuyển hoá các nguyên tắc pháp lý quốc tế cơ bản như không phân biệt đối xử, công khai, minh bạch trong hoạt động ban hành pháp luật, áp dụng pháp luật, bảo đảm quyền được xét xử theo một thủ tục tố tụng ngày càng thân thiện hơn, đó là tôn trọng và đề cao
sự công bằng, bình đẳng; bảo đảm các quyền cơ bản của con người, trong đó có việc xây dựng chính sách hình sự theo hướng thân thiện hơn tức là hạn chế hình phạt tử hình, tăng cường áp dụng các hình phạt không giam giữ như cải tạo không giam giữ, án treo… Bởi vì bên cạnh những nguyên nhân đó, đang có những thách thức lớn cũng đang đặt ra đối với hệ thống tư pháp ở nước ta: đó là sự xuất hiện của nhiều tổ chức phạm tội xuyên quốc gia, số vụ có sự móc nối giữa đối tượng phạm tội ở trong nước với các tổ chức tội phạm ở nước ngoài có xu hướng gia tăng.
Sự không tương thích về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động, hệ thống hình phạt và thủ tục tố tụng tư pháp của Việt Nam so với những quy tắc và chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế; sự hạn chế, lạc hậu trong nhận thức hiểu biết và đặc biệt là kỹ năng áp dụng pháp luật (bao gồm cả việc áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế song phương và đa phương) của đội ngũ cán bộ tư pháp Việt Nam trong khi xử lý những vấn đề pháp lý liên quan đến quá trình hội nhập. Trong khi đó, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật quốc tế và kỹ năng nghiệp vụ xử lý các vấn đề quốc tế liên quan đến hội nhập, đến việc xử lý các yêu cầu tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm… hiện nay còn nhiều bất cập và vẫn đang trong tình trạng bị động, chắp vá, hình thức và kém hiệu quả. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng, thì Việt Nam cần không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hệ thống pháp lý, đặc biệt là hệ thống pháp luật hình sự, sao cho những chính sách hình sự của nước ta tương đồng với hệ thống hình sự các nước trong khu vực và trên thế giới, thể hiện bằng nhiều quy định khác nhau trong đó có quy định về chế định án treo, từ đó tạo điều kiện tốt nhất cho hội nhập quốc tế và tương trợ tư pháp. Có như vậy thì hệ thống TA nước ta mới được mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác với các thiết chế xét xử và trọng tài quốc tế để có thể giải quyết các vụ án, vụ việc xuyên quốc gia; qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng án treo
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về chế định án treo
Khái niệm án treo hiện nay chưa được định nghĩa chính thức trong Luật hình sự mà mới chỉ được định nghĩa trong Nghị quyết hướng dẫn thi hành của Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao, do đó để án treo được hiểu một cách nhất quán giữa các chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng cũng như nâng cao nhận thức của nhân dân cần chính thức quy định định nghĩa khái niệm này trong Luật hình sự.
Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã có giải thích về các điều kiện được hưởng án treo trong đó có điều kiện: Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Quy định này còn chung chung, dẫn tới mỗi nơi áp dụng một kiểu do đó, cần có hướng dẫn cụ thể hơn về điều kiện này: chẳng hạn, người phạm tội có học thức cao phạm tội do lỗi vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng, sống trong gia đình có truyền thống hiếu học… tức là khả năng, điều kiện để họ tái phạm không có hoặc rất ít thì không cần phải cách ly họ.
Ngoài ra, các văn bản hướng dẫn thi hành cần có hướng dẫn cụ thể đối với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với người phạm tội được hưởng án treo. Cần có hướng dẫn đối với những tình tiết tăng nặng mang tính chất dã man, tàn bạo… thì nhất định không được hưởng án treo.
Khoản 1 Điều 65 BLHS quy định: “ Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.”
Theo ý kiến của tác giả việc quy định như trên là hợp lý và cần phải được phát huy theo hướng tăng dần tỷ lệ bị cáo được hưởng án treo theo xu hướng chung của cả nước và thế giới vì tỷ lệ bị cáo được hưởng án treo tại Tây Ninh còn thấp. Tuy nhiên, cần quán triệt việc áp dụng quy định về mức phạt tù này đối với các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để tránh việc muốn cho bị cáo được hưởng án treo nên quyết định hình phạt nhẹ hơn mức hình phạt thông thường hoặc vì không muốn cho hưởng án treo nên hành vi phạm tội chỉ cần tuyên một hình phạt tù trong một thời gian ngắn (ví dụ như 2 năm 6 tháng) nên đã tăng mức phạt tù lên trên 3 năm để không cho người phạm tội được hưởng án treo. Do đó, Bản án không thực sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tạo cảm giác trừng trị
quá nặng đối với người phạm tội (vì hậu quả pháp lý của án treo là rất nghiêm khắc), không đạt được mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội. Chính vì điều này mà cần có sự phân biệt giữa việc quyết định hình phạt tù giam và việc cho hưởng án treo nếu có đủ điều kiện áp dụng trong đó có điều kiện về mức hình phạt.
Thứ hai, về nhân thân người phạm tội. Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn khá chi tiết về người phạm tội có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Tức là họ là người chấp hành tốt các quy định của pháp luật, quy định của địa phương nơi cư trú. Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Theo Nghị quyết trên, điều kiện về nhân thân để một người phạm tội được hưởng án treo là họ phải có nhân thân tốt, nhưng để đánh giá một người có nhân thân tốt thì phải là sự đánh giá cả một quá trình về thái độ của người phạm tội trước, trong và sau khi phạm tội trong mối quan hệ với nhau. Sự đánh giá người phạm tội trước, trong và sau khi phạm tội sẽ có được một kết quả đúng đắn và khách quan nhất, bởi vì trong nhiều trường hợp người phạm tội sau khi phạm tội thì tỏ vẻ thật thà, ăn năn, hối cải nhưng đó chỉ là biểu hiện bên ngoài nhằm che đậy bản chất bên trong hòng đánh lừa cơ quan tiến hành tố tụng để được coi đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Do đó, nếu chỉ căn cứ vào sự đánh giá ở góc độ này sẽ dẫn đến cái nhìn phiến diện và không thấy được bản chất nguy hiểm của người phạm tội, vì chứng tỏ rằng trong những trường hợp này người phạm tội có kinh nghiệm đối phó với cơ quan điều tra, xét xử… Như vậy thì không thể cho người phạm tội có bản chất nguy hiểm thể hiện một quá khứ với quá khứ bất hảo ở địa phương trước khi phạm tội thể hiện sự tính toán sắp đặt tinh vi xảo quyệt, trong khi phạm tội thì cố ý thực hiện tội phạm đến cùng, thủ đoạn và hành vi phạm tội thể hiện sự dã man, côn đồ, khi bị bắt
thì quanh co, gian dối… được hưởng án treo – những người phạm tội như vậy sẽ không thể tự giáo dục, cải tạo chính mình được mà cần những hình phạt nghiêm khắc hơn. Việc chỉ cho những người vì hoàn cảnh khó khăn mà nhất thời phạm tội, phạm tội lần đầu, thủ đoạn phạm tội đơn giản, đã tự nguyện bồi thường và có thái độ ăn năn, hối cải thực sự về hành vi phạm tội của mình, được hưởng án treo sẽ phát huy được tác dụng tích cực của chế định này.
Đây là vấn đề cần được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật hình sự để Tòa án nhân dân khi áp dụng chế định án treo trong thực tiễn có sự thống nhất và nhất quán.
Thứ ba, hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về cách tính thời gian thử thách của người được hưởng án treo có tạm giữ, tạm giam. Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện nhưng khi người đó vi phạm nghĩa vụ án treo hoặc người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Bản án tù cho hưởng án treo của người đó sẽ chuyển thành thi tù giam. Nếu không trừ thời gian tạm giữ, tạm giam người đó đã bị áp dụng, mặc nhiên vô hình chung, thời gian đã tạm giữ, tạm giam không được tính đến cho bị cáo, là rất bất lợi và không có sự công bằng so với người bị phạt cải tạo không giam giữ hay người bị án phạt tù. Điều 36 BLHS quy định: “Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời hạn tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ”. Bên cạnh đó Điều 38 BLHS cũng quy định: “... Thời hạn tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 1 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù”.
Thứ tư, Điều 5 Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách tính từ ngày tuyên Bản án cho hưởng án treo. Do đó việc kiểm tra giám sát người được hưởng án treo có tuân theo các quy định của pháp luật trong thời gian thử thách hay không cũng phải được bắt đầu tính từ thời điểm ngày tuyên Bản án cho đến khi người chấp hành án chấp hành xong thời gian thử thách. Nhưng quá trình nghiên cứu thực tiễn cho thấy hồ sơ chấp hành án treo chỉ được lập kể từ khi có Quyết định thi hành án và khi hồ sơ được giao cho UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục. Vậy trong thời gian từ khi Tòa án tuyên Bản án đến khi có Quyết định phân
công người trực tiếp giám sát, giáo dục thì UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục sẽ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo như thế nào? Việc lao động, học tập của người được hưởng án treo có đúng theo quy định tại Điều 65 Luật thi hành án hình sự không? Để đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của người được hưởng án treo và tháo gỡ những bất cập, khó khăn trong việc kiểm tra, giám sát thi hành án treo đối với người phạm tội trong thời gian từ khi Tòa án tuyên án đến khi có Quyết định phân công người giám sát giáo dục, theo quan điểm của tôi cần có thông tư, nghị định hướng dẫn việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trước khi phân công người trực tiếp giám sát giáp dục và sửa đổi Điều 68 Luật thi hành án hình sự bằng cách thêm tài liệu mà UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục cần bổ sung khi nhận hồ sơ như sau: Bản báo cáo công tác trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục từ khi nhận người được hưởng án treo đến khi ra Quyết định phân công người trực tiếp giám sát giáo dục; bản nhận xét của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Ngoài ra, pháp luật cần quy định cụ thể thời hạn phải ra quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; đồng thời quy định rò trách nhiệm của người được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người phạm tội cũng như chế tài xử lý khi xảy ra vi phạm: Bởi vì nếu không có sự giám sát trực tiếp, sát sao kịp thời của cá nhân người được giao trực tiếp, giáo dục thì không thể phát hiện người được hưởng án treo có vi phạm nghĩa vụ và không đảm bảo việc thi hành án treo theo đúng luật quy định hay không? Chính vì vậy, chỉ khi có người trực tiếp giám sát, giáo dục bản thân người được hưởng án treo mới có ý thức thực hiện nghĩa vụ của mình được quy định trong luật thi hành án hình sự, ngăn ngừa người được hưởng án treo tái phạm hoặc lợi dụng sự lơi lỏng để vi phạm pháp luật.
Qua thực tiễn cho thấy, trong thời gian ban đầu khi thi hành án người phạm tội được hưởng án treo rất dễ tái phạm hoặc vi phạm nghĩa vụ nhất định vì thời gian này người chấp hành án chưa được cải tạo, giáo dục và rất khó hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục cần phải nhanh chóng kịp thời phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục ngay sau khi nhận hồ sơ thi hành án của Cơ quan thi hành án Công an cấp huyện, Cơ quan thi hành án