Định Hướng Phát Triển Công Nghệ Phần Mềm Trong Quá Trình Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Đất Nước


quá quan tâm đến thị trường Hoa Kỳ bỏ qua các thị trường truyền thống như Đông Âu, Nhật Bản…Như vậy, vấn đề đặt ra là phải hoạch định thị trường xuất nhập khẩu sao cho có hiệu quả nhất, cụ thể như sau:

Về thị trường đầu vào: Phải cân nhắc nhập khẩu thiết bị, công nghệ, nguyên nhiên liệu ở những thị trường nào có lợi nhất về chất lượng, giá cả và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Về thị trường đầu ra: Nhà nước cần hướng các doanh nghiệp xuất khẩu vào tất cả các thị trường, từ những thị trường phát triển cao như Hoa kỳ, Nhật Bản, EU đến những thị trường có trình độ phát triển thấp như Châu Phi và các nước trong khu vực. Tuy nhiên, cần ưu tiên cho những thị trường phát triển cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU bởi ở đó chúng ta mới thể hiện được khả năng cạnh tranh của mình và phù hợp với xu thế phát triển của thị trường thế giới trong điều kiện hội nhập.

C. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập

Hiện nay, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam được chia ra 3 nhóm: (1)Nhóm hàng xuất khẩu chủ lực quy mô lớn: gồm hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, linh kiện điện tử, gạo, cà phê, hạt điều, thủy sản, dầu thô; (2)Nhóm hàng có nhiều tiềm năng xuất khẩu nhưng kim ngạch và tốc độ tăng trưởng thấp: gồm rau quả và hàng thủ công mỹ nghệ; (3)Nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng cao, tiềm năng xuất khẩu lớn: gồm dây và cáp điện, sản phẩm nhựa, xe đạp và phụ tùng xe đạp [3]. Để thúc đẩy phát triển xuất khẩu các nhóm hàng trên, chúng ta cần tập trung vào các biện pháp sau:

Nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh ở Việt Nam còn thấp so với khu vực và quốc tế; cụ thể như cơ sở hạ tầng chưa phát triển, trình độ công nghệ thấp, trình độ quản lý yếu, mức độ ổn định và đồng bộ của hệ thống chính sách không cao. Việc tạo


dựng nhanh chóng và đồng bộ các yếu tố trên có tác động rất lớn đến sự thành công của quá trình hội nhập nói chung và ngoại thương Việt Nam nói riêng.

Phát triển thương mại điện tử, áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào trong các giao dịch thương mại. Xu hướng chung ngày nay của thương mại thế giới là giá cả, giá trị của các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, sản phẩm thô ngày càng giảm. Hơn nữa, sự phát triển với tốc độ nhanh của hình thức thương mại điện tử (TMĐT) đã càng làm gia tăng việc mua bán các dịch vụ và hàng hóa vô hình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.

Theo nghiên cứu của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển UNCTAD, trong những năm gần đây, hình thức giao dịch TMĐT đang phát triển rất nhanh, nếu như năm 2002 doanh thu đạt 120 tỷ USD, thì 2003 đạt 200 tỷ USD, dự báo năm 2004 đạt khoảng 300 tỷ USD [39]. Thách thức đó khiến chúng ta một mặt phải tích cực chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước ngoài, mặt khác quan trọng hơn là phải đầu tư nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông, đầu tư cho lực lượng lao động có tay nghề cao về công nghệ thông tin. Có vậy, hàng hóa Việt Nam mới có khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế một cách bền vững.

Thực hiện rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng quốc tế. Bởi ngày nay chất lượng có vai trò hàng đầu và là nhân tố quan trọng trong cạnh tranh. Nhiều quốc gia mặc nhiên thống nhất rằng doanh nghiệp nào chưa có chứng nhận phù hợp với các chứng chỉ, chẳng hạn ISO 9000…thì không thể tham gia xuất khẩu hoặc đấu thầu quốc tế. Do đó, để được công nhận, Việt Nam cần phải áp dụng những hệ thống quản lý chất lượng quốc tế trên. Vấn đề quan trọng là bản thân các doanh nghiệp phải nhận thức đầy đủ về các hệ thống tiêu chuẩn đó thì mới có thể áp dụng vào doanh nghiệp mình.

Cải cách kinh tế ở Ấn Độ và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - 16


Cải tiến và đa dạng mẫu mã, chủng loại sản phẩm. Các yếu tố như mẫu mã bao bì, các dịch vụ hậu mãi cũng có vai trò rất quan trọng. Vì thế, việc xây dựng thương hiệu, cải tiến mẫu mã và các dịch vụ sau bán hàng cần phải được các doanh nghiệp Việt Nam coi trọng.

Huy động các nguồn lực trong xã hội để đầu tư và sớm đưa vào khai thác các dự án tạo nguồn hàng xuất khẩu. Chú trọng huy động hiệu quả các nguồn lực trong nhân dân, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân bởi tốc độ tăng trưởng của khu vực này rất cao, nhất là về thu hút lao động. Để tạo ra nguồn hàng xuất khẩu dồi dào, cần tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng để tạo thuận lợi cho xuất khẩu, đồng thời phải phát triển các dự án mới để tạo khối lượng hàng hóa đủ lớn phục vụ trong nước và xuất khẩu.

Hoàn thiện chính sách tín dụng hỗ trợ: Chính sách tín dụng hỗ trợ được áp dụng từ năm 2002 đến nay đã phát huy tác dụng tích cực đối với hoạt động xuất khẩu. Để hoàn thiện chính sách này hơn nữa, chúng ta cần tập trung nguồn lực hỗ trợ những mặt hàng đang gặp khó khăn về vốn, về thị trường, hoặc các mặt hàng sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước.

Chính sách thưởng vượt thành tích xuất khẩu: Theo đó, giảm mức thưởng đối với các mặt hàng nông sản thô thuần tuý so với mức thưởng với các sản phẩm chất lượng cao hoặc đã qua chế biến để khuyến khích việc nâng cao giá trị xuất khẩu. Hơn nữa, có mức thưởng thành tích cho các doanh nghiệp có giá xuất khẩu cao hơn so với giá xuất khẩu các sản phẩm cùng loại để khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực chế biến cho hàng xuất khẩu. Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn, công bố danh mục mặt hàng mới và thị trường mới trong một thời gian đủ dài, để doanh nghiệp chủ động chuyển đổi cơ cấu sản phẩm và thị trường xuất khẩu của mình cho phù hợp với tiêu chuẩn được công bố, thay vì xét thưởng và công bố hàng năm như hiện nay.


Nâng cao hoạt động xúc tiến thương mại ở cả ba cấp độ: doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và cấp Nhà nước (Sở Thương Mại và Bộ Thương Mại) theo những hướng sau: (1)Chuẩn bị kỹ lưỡng các chương trình xúc tiến thương mại; đặc biệt là khi tham gia các hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. Trước đó, cần liên hệ với các đối tác nước ngoài để có thông tin đầy đủ về các thành phần tham gia, đáp ứng tốt các yêu cầu của thương nhân, tránh lãng phí thời gian và nguồn lực. (2)Với các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính để doanh nghiệp tiếp cận dễ hơn với các nguồn hỗ trợ; tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ trì chương trình XTTM triển khai và tổ chức thực hiện; đảm bảo quản lý hiệu quả nguồn tài chính hỗ trợ của Nhà nước; ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; tập trung XTTM theo từng chuyên đề, ngành hàng và thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia. (3)Tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan ngoại giao và đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung cấp thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường của nước sở tại. Đặc biệt, nâng cao trách nhiệm của các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài trong việc đi tìm các thị trường mới, giới thiệu các bạn hàng mới, tổ chức phối hợp cho các doanh nghiệp trong khâu chuẩn bị XTTM.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại. Đề nghị hải quan cửa khẩu tăng tỷ lệ miễn kiểm lên 80% đối với hàng xuất khẩu; giảm dần tỷ lệ kiểm tra xác suất và kiểm tra toàn bộ ở các cửa khẩu; đưa tỷ lệ hàng hóa miễn kiểm lên mức ngang bằng nhau, tránh tình trạng chênh lệch tỷ lệ miễn kiểm ở các cửa khẩu như hiện nay. Hơn nữa, tăng cường đầu tư thiết bị chuyên dùng hiện đại cho ngành Hải quan, đặc biệt là các máy soi để giảm kiểm tra trực tiếp, rút ngắn thời gian kiểm tra.

3.3.2. Định hướng phát triển công nghệ phần mềm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước


Đối với Việt Nam - một đất nước đang phát triển và đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phát huy sức mạnh của cả dân tộc, tăng cường năng lực của Nhà nước đi đôi với mở rộng cho nhân dân, các nhà đầu tư và các lực lượng thị trường cùng tham gia [37]. Phải xác định rò Việt Nam đang ở giai đoạn nào để có thể lựa chọn ngành công nghiệp phù hợp, không nên đi quá nhanh khi chưa chuẩn bị đầy đủ các tiềm lực cho phát triển lâu dài. Những kinh nghiệm phát triển công nghệ phần mềm của Ấn Độ đối với

Việt Nam thực sự đáng quan tâm. Việt Nam có thể chú trọng vào phát triển công nghiệp phần mềm bởi nó không yêu cầu nhiều vật liệu thô và không gây hại cho môi trường. Hơn nữa, đây là một trong những ngành mũi nhọn của thế kỷ XXI, phù hợp với xu hướng chung của thế giới là phát triển kinh tế tri thức. Trong chiến lược phát triển công nghệ phần mềm của Việt Nam, vai trò của Nhà nước thực sự mang tính chất quyết định.

Đánh giá về khả năng của công nghệ phần mềm Việt Nam, các chuyên gia nước ngoài đều đề cập đến những hạn chế chủ yếu như sau:

1. Khả năng sử dụng tiếng Anh chưa tốt;

2. Vấn đề vi phạm bản quyền của các công ty Việt Nam;

3. Chất lượng gia công phầm mềm chưa đảm bảo;

4. Thiếu hụt về hạ tầng thông tin;

5. Kinh nghiệm tiếp xúc với thị trường nước ngoài;

6. Hoạt động thực thi chính sách vòng vèo, phức tạp và không đồng bộ.

Trong những năm qua, nhận thức rò vai trò và tầm quan trọng của việc phát triển công nghệ thông tin đặc biệt là công nghệ phần mềm, Đảng và Nhà nước đã sớm có những chính sách ứng dụng và phát triển lĩnh vực quan trọng này. Chính phủ ban hành Nghị Quyết 49/CP ngày 4/8/1993 về “Phát triển


công nghệ thông tin ở Việt Nam trong những năm 90”; Nghị Quyết 07/2000/NQ-CP ngày 5/6/2000 về “Xây dựng và phát triển công nghệ phần mềm giai đoạn 2000-2005”; Quyết Định của Thủ Tướng Chính phủ số 128/2000/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 về “Một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển công nghiệp phần mềm”…để thúc đẩy và ứng dụng công nghệ thông tin, bắt kịp xu thế chung của thế giới.

Như vậy, qua những kinh nghiệm của Ấn Độ cho thấy, việc thúc đẩy mọi hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin để xây dựng một ngành công nghiệp phần mềm sản xuất ra các sản phẩm phần mềm theo quy trình kỹ thuật và đảm bảo chất lượng đã trở nên thực sự cần thiết đối với Việt Nam. Muốn vậy, đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị sẵn sàng và chu đáo theo những định hướng sau:

Thứ nhất: Chú trọng và đẩy mạnh việc bồi dưỡng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực công nghệ phần mềm chất lượng cao. Đến năm 2000, toàn quốc đã có 20.000 các bộ tin học được đào tạo căn bản. Hiện có 15 trường có đào tạo căn bản về tin học, mỗi năm có khoảng 3.500 người được đào tạo. Cả nước có 3 viện nghiên cứu chuyên ngành, có 43 cơ sở đào tạo về công nghệ thông tin, trong đó có 7 trường đại học có khoa điện tử - tin học. Chính phủ nên có chính sách thu hút nhân tài tập trung vào nghiên cứu khoa học công nghệ. Mục tiêu phát triển đội ngũ kỹ sư công nghệ thông tin không những giỏi về chuyên môn mà còn phải có khả năng sử dụng tốt tiếng Anh, nhanh nhạy và linh hoạt trong công việc để có thể cho ra đời những sản phẩm phần mềm chất lượng tốt nhất, đáp ứng những đòi hòi khắt khe và xu thế phát triển nhanh chóng của ngành công nghệ này. Ngoài ra, có thể hình thành một số trung tâm trọng yếu có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ, tạo một lực phát triển đột phá gắn trực tiếp với thị trường, thực hiện thương mại hóa công nghệ, ươm tạo các doanh nghiệp sản xuất công nghệ phần mềm. Chính


phủ cũng cần tạo điều kiện để các Việt Kiều là những nhà khoa học, chuyên gia trong các lĩnh vực sản xuất và nghiên cứu phần mềm đang hoạt động ở các nước phát triển có thể về đóng góp cho đất nước.

Thứ hai: Thu hút khu vực tư nhân vào hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm tăng cường năng lực khoa học công nghệ quốc gia. Cần tập trung khuyến khích hoạt động đổi mới của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh việc tăng tính hiệu quả của các Viện Nghiên cứu Nhà nước. Nên chuyển từ sự phát triển công nghệ do khu vực Nhà nước dẫn dắt sang phát triển công nghệ do khu vực tư nhân điều hành. Ngoài ra, có thể có một số ưu đãi như miễn thuế thương mại hóa công nghệ mới, miễn thuế chi tiêu cho hoạt đông R&D, miễn thuế cho các cơ sở đào tạo nhân lực, miễn và giảm thuế cho các Viện Nghiên cứu Tư nhân, miễn thuế cho kỹ sư nước ngoài để thu hút nhân tài, bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay phát triển công nghệ…Khác với các biện pháp ưu đãi tác động trực tiếp vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp như thuế, trợ cấp; các ưu đãi về đầu tư vào khoa học công nghệ không gây biến dạng giá cả làm sai lệch thị trường.

Thứ ba: Tập trung phát triển và đẩy mạnh tiến độ triển khai xây dựng các khu công nghệ cao, trong đó chú trọng trước hết là các khu công nghệ phần mềm. Hiện cả nước có khoảng 35 công ty chuyên về phần mềm và khoảng 35 công ty phát triển phần mềm. Việc xây dựng các khu công nghệ cao, trong đó chú trọng vào khu công nghệ phần mềm tại Hoà Lạc - Hà Nội và tại thành phố Hồ Chí Minh đã được các Nghị Quyết của Đảng khẳng định, đặt ra trách nhiệm cho mọi cấp, mọi ngành; tạo sự tin tưởng và phấn khởi trong nhân dân, đặc biệt là giới trí thức khoa học kỹ thuật và giới công thương [40]. Tiêu biểu là tại thành phố Hồ Chí Minh, một khu công nghệ phần mềm (IT Park) vừa được thành lập trong khuôn viên của Đại học Quốc Gia Hồ Chí Minh (ĐHQG HCM) ở khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức. Khu


công nghệ phần mềm ĐHQG HCM có chức năng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghệ phần mềm và công nghệ thông tin; phát triển các nghiên cứu, chuyển giao công nghệ thông tin tiên tiến và các công nghệ cao gắn với công nghệ thông tin; phát triển các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin, định hướng ưu tiên công nghệ phần mềm.

Gắn với việc phát triển các khu Công nghệ phần mềm, Chính phủ cần có chính sách ưu đãi đối với các công ty hoạt động trong các khu công nghệ này; chẳng hạn như hỗ trợ về cơ sở hạ tầng như cho thuê đất với giá rẻ, cung cấp đường truyền tốc độ cao, rút ngắn tối đa hoạt động hành chính cấp phép…Đó chính là những ưu đãi để thu hút các công ty tham gia hoạt động trong khu công nghệ phần mềm, bởi đây chính là cơ cấu tổ chức để qua đó Chính phủ hỗ trợ hiệu quả nhất ngành công nghiệp non trẻ này.

Thứ tư: Có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào hoạt động sản xuất phần mềm. Hiện Chính phủ đã có thông tư số 123/2004/TT-BTC ngày 22/12/2004 hướng dẫn thực hiện những ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp sản xuất phần mềm [29]. Theo đó, các doanh nghiệp phần mềm được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong 15 năm kể từ khi mới thành lập và đưa vào kinh doanh; được miễn thuế thu nhập trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo. Hơn nữa, được miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu đối với nguyên vật liệu nhập khẩu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm phần mềm mà trong nước chưa sản xuất được. Còn với các sản phẩm phần mềm xuất khẩu thì được miễn thuế xuất khẩu. Nếu các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong các IT Park của Chính phủ thì cũng được hưởng các ưu đãi như trên.

Xem tất cả 155 trang.

Ngày đăng: 30/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí