góc độ vĩ mô, BOJ sẽ châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính nếu công khai kêu gọi sự trợ giúp của Hệ thống an ninh khủng hoảng. Tình trạng đó khiến cho cuối cùng BOJ đã né tránh việc kêu gọi sự trợ giúp của Hệ thống an ninh khủng hoảng mà chỉ có thể giải quyết tình trạng nợ xấu của từng NHTM.
Thứ ba, biện pháp giám sát yếu kém và tình trạng bưng bít thông tin trong các ngân hàng đối với các khoản nợ xấu.
Trước khi FSA ra đời, công tác kiểm tra và giám sát tài chính vẫn do Bộ Tài chính đảm nhận. Độc lập khỏi Bộ Tài chính và các ngân hàng, FSA góp phần cải thiện công tác giám sát, tăng tính minh bạch hóa hoạt động ngân hàng. Trước năm 1992, hầu như không có việc công khai các khoản nợ khó đòi [133]. Lần đầu tiên, năm 1992 dựa trên tiêu chuẩn của luật thuế, các khoản NPLs được công bố là khoản nợ quá hạn 180 ngày hoặc khoản nợ của các tổ chức sắp phá sản. Tuy vậy, cách phân loại này không phản ánh được khả năng trả nợ của doanh nghiệp vì theo sự phân loại này, nếu một doanh nghiệp có nguy cơ phá sản có hai khoản nợ là khoản nợ quá hạn 180 ngày và khoản nợ khác thì tiêu chuẩn chỉ yêu cầu công khai khoản nợ quá hạn trên là NPLs thôi. Nói là công khai như vậy nhưng NPLs thực tế là bao nhiêu thì chỉ người đi vay mới biết. Phải đến năm tài chính 1995, 1996, 1997, phạm vi NPLs mới được mở rộng và yêu cầu công khai toàn bộ các khoản NPLs mới được đưa ra trong Luật Ngân hàng năm 1999. Các tiêu chuẩn NPLs được tách khỏi tiêu chuẩn trong luật thuế và thay bằng quy định "Ngân hàng tự giác đánh giá các khoản nợ". Trên nguyên tắc, quy định này tập trung vào xem xét tình trạng tín dụng của doanh nghiệp đi vay không phân biệt lớn nhỏ, theo đó nếu doanh nghiệp có nguy cơ phá sản thì toàn bộ vốn vay của doanh nghiệp đó là NPLs. Quy định này cũng chính là một phần nguyên nhân của tình trạng NPLs không được phản ánh chân thực, dẫn đến khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra, một lý giải nữa cho tình trạng khủng hoảng kéo dài ở Nhật là phản ứng của thị trường. Bản thân Chính phủ và BOJ đã không lường trước được phản ứng của thị trường khi khủng hoảng xảy ra: Thị trường tiền tệ ngắn hạn ngay lập tức đóng băng trong những tuần đầu khi chỉ số chứng khoán Sanyo sụp đổ vào tháng 11 năm 1997. Trên thị trường chứng khoán, nỗi lo sợ rủi ro khiến mọi người chuyển toàn bộ tiền vào tài khoản cho BOJ nắm giữ, thông qua BOJ để tiến hành giao dịch. Cũng trong thời gian này, những người gửi tiền cá nhân bắt đầu rút tiền khỏi ngân hàng để lấy tiền mặt. Trong khu vực tài chính, những khoản tiền gửi trong những TCTD nhỏ lần lượt chuyển thành các khoản tiết kiệm bưu điện hoặc chuyển sang các ngân hàng lớn cho an toàn. Từ năm 1990, các tổ chức đánh giá xếp hạng NHTM thường xuyên đánh tụt hạng các ngân hàng của Nhật. Phản ứng của thị trường khiến cho tình trạng đã xấu lại càng xấu hơn mà không ai có thể lường trước được.
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
- Cấu trúc của nền kinh tế Nhật bản chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng ở nước này. Nhật Bản với các đặc điểm nổi bật trong cấu trúc kinh tế như: Ngân hàng là cơ sở của toàn bộ hệ thống tài chính; các ngân hàng hay thị trường vốn gián tiếp là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho các công ty và cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế Nhật Bản; hệ thống ngân hàng mang tính khép kín và hướng nội; sự can thiệp mang tính bảo hộ của chính phủ đối với hệ thống ngân hàng cộng với việc coi trọng những ràng buộc nhóm và các quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân hàng, quan hệ gia đình, quan hệ “cánh hẩu”… Những đặc điểm này trong nền kinh tế Nhật Bản đã khiến cho các quyết định cho vay của các ngân hàng không phải lúc nào cũng được dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro một cách cẩn trọng.
Các cơ quan quản lý tài chính Nhật Bản đã không giải quyết vấn đề của ngành ngân hàng đủ sớm và đủ nhanh, do đó, đã không áp dụng cách tiếp cận toàn diện để giải quyết vấn đề của ngành ngân hàng rõ ràng đây là một sai lầm theo nghĩa là nó cho phép một cuộc khủng hoảng ngân hàng có hệ thống xuất hiện ở Nhật Bản vào năm 1997 - 1998 và dẫn tới sự sụt giảm sản lượng lớn trong giai đoạn 1998 – 2002 ở nước này. Các nhà chức trách đã không giải quyết vấn đề một cách quyết đoán, toàn diện và sớm hơn nhiều vì:
- Họ đã đánh giá thấp bản chất và mức độ nghiêm trọng của vấn đề;
Có thể bạn quan tâm!
- Những Nhân Tố Tác Động Đến Cải Cách Hệ Thống Ngân Hàng Nhật Bản
- Các Biện Pháp Cải Cách Hệ Thống Ngân Hàng Nhật Bản
- Những Thay Đổi Về Thể Chế Và Pháp Lý Để Tạo Điều Kiện Tái Cấu
- Thực Tiễn Cải Cách Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam: Những Thành Tựu, Hạn Chế Và Nguyên Nhân
- Tỷ Lệ Nợ Xấu Và Kết Quả Xử Lý Nợ Xấu Giai Đoạn 2015-2018
- Cải cách hệ thống ngân hàng nhật bản giai đoạn 1990 – 2005 và một số hàm ý cho Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
- Hy vọng thiếu căn cứ là tăng trưởng sẽ khôi phục giá trị tài sản và sự lành mạnh của bảng cân đối tài sản của ngân hàng;
- Liên tục bơm các nguồn lực tài chính vào để hỗ trợ tổng cầu, do đó đã cho phép các công ty mất khả năng thanh toán được tồn tại và chậm trễ trong việc giải quyết vấn đề; và
- Thiếu các sức ép trong hoặc ngoài nước để phải có hành động chính sách quyết đoán hơn.
Hơn nữa, chính phủ thiếu sự lãnh đạo chính trị cần thiết để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng. Do không có các khung pháp lý được xác định rõ ràng, hoạt động tốt để đối phó với các tổ chức mất khả năng thanh toán, nên có sự do dự trong việc thực hiện các biện pháp mang tính quyết định vì sợ rằng nó có thể đẩy ngành ngân hàng tới hoảng loạn
Cuối cùng, cuộc khủng hoảng 1997-1998 đã thúc đẩy chính phủ thực hiện một chính sách quyết liệt và quyết đoán hơn để giải quyết vấn đề. Kể từ đó sự ổn định và tái cấu trúc ngành ngân hàng đã đạt được sự tiến bộ bằng cách: Đóng cửa hoặc quốc hữu hóa tạm thời các ngân hàng không còn khả năng hoạt động; tái cấp vốn cho các ngân hàng yếu kém; phân loại các khoản cho vay và trích lập dự phòng rủi ro cho vay chặt chẽ hơn; tăng tốc xử lý nợ xấu; và tái cấu trúc hoạt động nợ doanh nghiệp. Kết quả là, mặc dù vốn ngân hàng có thể vẫn không đủ, nhưng lưới an toàn đã được
đưa ra. Việc phân bổ tín dụng đã được thực hiện hợp lý hơn. Tuy nhiên, rủi ro còn lại tập trung ở các ngân hàng khu vực và nhỏ hơn, dễ bị tổn thương trước điều kiện kinh tế địa phương yếu, giảm phát dai dẳng và lãi suất dài hạn tăng.
Việc khôi phục một hệ thống ngân hàng lành mạnh đòi hỏi phải có một khu vực doanh nghiệp lành mạnh - thông qua việc tái cấu trúc nợ và hoạt động của những doanh nghiệp mắc nợ lớn - và tái lập các hoạt động kinh doanh ngân hàng có lợi nhuận - thông qua việc quản lý ngân hàng tốt hơn và tập trung vào năng lực cốt lõi. Các ngân hàng đang củng cố hoạt động kinh doanh của mình và định vị lại năng lực cốt lõi của mình trong một cuộc chiến khốc liệt để sinh tồn. Chiến lược chung cho nhiều ngân hàng thành phố lớn bao gồm:
- Sáp nhập và/hoặc liên minh nhằm tiến đến các nền kinh tế có quy mô;
- Phát triển năng lực mới trong hoạt động ngân hàng đầu tư, quản lý tài sản, chế độ hưu trí và các dịch vụ dựa thu phí; và
- Thu hẹp hoạt động ở nước ngoài, trong một cuộc rút lui chiến thuật cho một số ngân hàng.
Đối với tất cả các ngân hàng, mục tiêu hiện nay rõ ràng là tối đa hóa ROE khi rời khỏi các mục tiêu định lượng truyền thống như mở rộng thị phần và khối lượng giao dịch. Những yếu tố này của chiến lược thể hiện rõ ràng quyết tâm tái sinh của họ trong một môi trường mới, nơi họ không thể mong đợi sự bảo vệ truyền thống từ chính phủ ngoài việc cung cấp một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và một khuôn khổ điều tiết và giám sát hợp lý.
Trong khi một số giải pháp được chính phủ Nhật Bản áp dụng mang lại hiệu quả trong ngắn hạn thì trong dài hạn nó chưa hẳn là biện pháp tốt. Bởi rõ ràng việc giảm số lượng cổ phiếu của công ty hàm ý tăng tài sản khác còn mua lại cổ phiếu của chính mình tức giảm tài sản khác. Hơn nữa, các ngân hàng cũng có thể miễn cưỡng bán cổ phần do việc này làm tổn hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa ngân hàng với các doanh nghiệp thông qua bảo lãnh. Một vấn đề nữa liên quan đến các doanh nghiệp nhỏ nếu mua lại cổ phần của chính mình đó là các doanh nghiệp này sẽ không đủ điều kiện để niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hầu hết các nước đều quy định một doanh nghiệp phải có số lượng cổ đông tối thiểu theo quy định cũng như có cổ đông lớn nhất nắm giữ phần lớn cổ phần nên việc mua lại cổ phần sẽ làm giảm số lượng cổ đông và tăng khả năng hủy niêm yết.
Kết luận chương 3
Thực tiễn phát triển hệ thống ngân hàng thế giới đã khẳng định: Động lực phát triển khu vực ngân hàng chính là nhu cầu phát triển của nền kinh tế; hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và tinh vi của nền kinh tế là những đổi mới trong lĩnh vực công nghệ; tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực ngân hàng là những thay đổi kịp thời trong môi trường thể chế và không ngừng nâng cao cơ sở hạ tầng tài chính. Có thể nói, sự phát triển của hệ thống ngân hàng tất yếu gắn kết chặt chẽ với sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng bất cứ nước nào cũng không tránh khỏi những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng. Đó chính là dấu hiệu cho thấy sự phát triển của hệ thống ngân hàng và các thể chế chính sách đi kèm đã không còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế; và đã đến thời điểm cần phải thực hiện những cải tiến đổi mới. Đó là lý do khi tổng kết thực tiễn phát triển khu vực ngân hàng thế giới, người ta thường thấy tái cơ cấu ngân hàng đi đôi với khủng hoảng diễn ra trong khu vực này. Vì vậy, nói một cách chính xác, sự phát triển, trong đó có cả quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là hệ quả tất yếu của sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng Nhật Bản cũng không nằm ngoài quy luật chung nói trên. Từ những năm đầu 1990, hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Nhật Bản nói chung đã xuất hiện nhiều vấn đề suy giảm, khủng hoảng, khiến nước này phải tiến hành những cải cách, tái cấu trúc toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Chương 3 luận án làm rõ bối cảnh kinh tế và những vấn đề khó khăn của hệ thống ngân hàng Nhật Bản những năm 1990; chỉ rõ các nguyên nhân đòi hỏi nước này phải tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng và phân tích những biện pháp Nhật Bản đã áp dụng nhằm cải cách hệ thống ngân hàng; đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế của quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Nhật Bản, nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm và vận dụng để đề xuất các giải pháp cho quá trình cải cách hệ thống ngân hàng của Việt Nam trong những năm tiếp theo ở chương 4. Những nghiên cứu về cải cách hệ thống ngân hàng Nhật Bản của luận án chủ yếu tập trung vào thời gian trong hơn một thập kỷ kể từ năm 1990, khi Nhật Bản phải trải qua bốn giai đoạn khủng hoảng với các mốc 1992-1993 (giai đoạn I); 1995 (giai đoạn II); 1997-1999 (giai đoạn III) và 2001- 2002 (giai đoạn IV). Thời kỳ này thường được biết đến với tên gọi “Thập kỷ mất mát” của Nhật Bản, trong đó ở hai giai đoạn đầu, mức tăng trưởng GDP của Nhật sụt giảm mạnh và đến hai giai đoạn sau thì mức tăng trưởng GDP âm, việc vực dậy nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn và các chính sách cải cách hệ thống ngân hàng được áp dụng mạnh mẽ, rõ nét.
CHƯƠNG 4
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG NHẬT BẢN VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM TRONG CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
4.1. Những bài học kinh nghiệm từ cải cách hệ thống ngân hàng Nhật Bản
4.1.1. Bài học về cách thức điều tiết nền kinh tế thông qua các công cụ chính sách tiền tệ
Tại Nhật Bản, mục tiêu chính của BOJ là để duy trì ổn định giá cả trong hành vi của chính sách tiền tệ, đảm bảo cho hoạt động của hệ thống ngân hàng diễn ra trơn tru, ổn định và thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Từ những mục tiêu đó, BOJ quy định về nhiệm vụ và hoạt động mà ngân hàng cần phải tiến hành như: Đảm bảo và quản lý tiền tệ, quản lý CSTT, cung cấp các dịch vụ thanh toán và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính, đảm bảo các hoạt động cho Chính phủ và kho bạc, lập dữ liệu, phân tích các hoạt động kinh tế. Để thực hiện được các mục tiêu trên, BOJ đã vận dụng linh hoạt các công cụ điều tiết có trong tay, cụ thể như sau:
- Công cụ lãi suất chiết khấu hay lãi suất NHTW: là công cụ chính mà BOJ đã dùng để tác động tới nền kinh tế. Thời gian từ 1990 đến năm 2005, lãi suất chiết khấu đã được thay đổi theo những mục tiêu kinh tế của BOJ và nhất là hỗ trợ cho việc điều chỉnh lãi suất thị trường kéo dài. Khi nền kinh tế có dấu hiệu trì trệ chậm phát triển, BOJ quyết định nới lỏng tiền tệ, giảm lãi suất chiết khấu theo đó là lạm phát giảm, kích thích tổng cầu, nhập khẩu và khuyến khích vay mượn cho đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn định, một số nguồn cung, giá cả, lạm phát tăng lên, lúc này BOJ thực hiện việc giảm lãi suất chiết khấu, giảm bớt cung ứng tiền tệ và tín dụng.
- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở đã theo sát lãi suất chiết khấu trong suốt quá trình điều tiết nhằm điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, cơ cấu lãi suất, cơ cấu thị trường chứng khoán của BOJ. Mua và bán trên thị trường mở hỗ trợ BOJ theo 3 hướng: (1) làm thay đổi lãi suất chứng khoán theo sự thay đổi lãi suất chiết khấu, (2) làm thay đổi cung ứng tiền theo chính sách điều tiết thắt chặt hoặc nới lỏng như một công cụ hợp đồng tác nghiệp với lãi suất chiết khấu và (3) trực tiếp tác động đến đầu tư và tiết kiệm trong thu nhập quốc dân. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở nhằm thực hiện ba ý đồ của BOJ: (1) tác nghiệp với lãi suất chiết khấu trong việc giảm bớt lợi tức chứng khoán, (2) tăng cung ứng tiền để kích thích
đầu tư mới theo hướng của BOJ và (3) điều chỉnh bản thân thị trường phiếu nợ và chứng khoán bằng việc thu về những chứng khoán đến hạn và phát hành có chọn lọc những chứng khoán mới theo mục tiêu khuếch trương tiết kiệm và đầu tư dài hạn hơn là ngắn hạn.
- Công cụ điều tiết cung ứng tiền tệ: Điều chỉnh tỷ giá là chính sách nổi tiếng của BOJ, đồng Yên Nhật đang chiếm một phần lớn trong dự trữ ngoại tệ toàn cầu (dự trữ thứ ba của thế giới sau USD và Euro). Khi nói về chính sách tỷ giá tức là đang nói về chính sách điều tiết cung ứng tiền tệ, vì việc can thiệp vào tỷ giá và thị trường ngoại hối là một bộ phận của công cụ điều tiết cung ứng tiền tệ. Chính sách cung ứng tiền của BOJ hướng một cách rõ ràng tới việc ổn định giá trị đồng Yên vì ổn định giá trị đồng Yên có nghĩa là ổn định được giá cả và hỗ trợ một cách đắc lực cho việc bành trướng xuất khẩu tư bản và công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng cơ bản ra nước ngoài. Khi FED tăng lãi suất, giảm cung ứng tiền để tăng giá USD nhằm phục vụ cải thiện cán cân thanh toán tổng thể, chính sách của FED đe doạ trực tiếp đến mục tiêu ổn định giá trị đồng Yên của Nhật Bản, để bảo vệ đồng Yên, BOJ buộc lòng phải phản ứng lại bằng cách giảm cung tiền, chính sách này phần nào giữ được cho đồng Yên bớt tụt giá. Khi FED hạ lãi suất chiết khấu và tăng cung ứng tiền, USD tụt giá, BOJ cấp tốc tung cơ số tiền tệ ra thị trường ngoại tệ để mua USD, cứu cán cân thương mại, giảm bớt sự tăng giá quá nguy hiểm của đồng Yên, cũng như góp phần tăng cung ứng tiền tệ để hỗ trợ cho sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư.
- Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: BOJ rất ít khi sử dụng công cụ này trừ những trường hợp quá cần thiết bởi theo quy định, tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, do vậy ảnh hưởng của nó rất rộng rãi và mỗi một thay đổi nhỏ trên tỷ lệ này đều tác động nặng nề lên tổng cung tiền tệ. Thay đổi dự trữ quốc gia, làm dịch chuyển các luồng đầu tư, thay đổi cả nghiệp vụ thị trường mở và tỷ giá. Thêm vào đó, thay đổi trên tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động mạnh mẽ đến sự tăng, giảm của lợi tức các ngân hàng trung gian, dẫn đến nhiều tác động xấu cho hệ thống tài chính quốc gia. Trái lại với FED, BOJ rất ít khi sử dụng công cụ này, với lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Nhật Bản về căn bản là rất thấp so với các NHTW khác trên thế giới, do vậy hạ thấp tỷ lệ này hơn nữa trong những đợt điều tiết nới lỏng vẫn là điều không an toàn khi mà lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở và cung ứng cơ số tiền thực hiện một cách xuất sắc và khá hoàn hảo trong chiến lược điều tiết của BOJ, còn nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên trong những lần điều tiết
thắt chặt lại càng là điều không nên vì nó rất dễ đẩy thị trường tài chính đến chỗ bất ổn định vì thiếu dự trữ bắt buộc.
- Công cụ kiểm soát tín dụng: Nhật Bản là quốc gia đầu tư ra nước ngoài rất lớn, do đó việc cấp phát tín dụng ưu đãi từ BOJ đóng vai trò là một loại hình điều tiết và định hướng đầu tư. Khi lượng cấp tín dụng từ BOJ kho khu vực kinh doanh (ngoài hệ thống ngân hàng trung gian) tăng thì tổng khối tín dụng do hệ thống ngân hàng trung gian cung cấp cho nền kinh tế cũng tăng theo. Ngược lại, mỗi khi tín dụng cấp phát cho các khu vực không phải là ngân hàng của BOJ giảm, có nghĩa là tín dụng định hướng giảm, đồng thời khối lượng cho vay của hệ thống ngân hàng trung gian vào các mục tiêu nói trên cũng giảm. Đó là hiện tượng các NHTG luôn nắm bắt được ý đồ cấp phát tín dụng của BOJ để lựa chọn, quyết định khối lượng vay của mình. Nó trở thành công cụ đóng hoặc mở van tín dụng của toàn nền kinh tế. Do đó, cho vay của BOJ đã điều tiết và hướng dẫn quá trình điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu công nghiệp và sản lượng của Nhật Bản thời gian qua. Kiểm soát tín dụng là công cụ bằng vàng để kiểm soát tiêu dùng trong những thời điểm cần chống lạm phát và ổn định giá cả. Có thể nói, ngoài việc tác động đến sản lượng tiềm năng, thất nghiệp và thu nhập bằng việc định hướng đầu tư và khối lượng vốn cho đầu tư, công cuộc kiểm soát tín dụng và cấp phát tín dụng ưu đãi còn là phương tiện để BOJ điều tiết cung cầu và giá cả.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm điều tiết các công cụ CSTT của Nhật Bản trong việc cải cách hệ thống ngân hàng, thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế, có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam như sau:
(i) Để thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia cần phải tiếp tục “ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát”; thực hiện nghiêm túc và coi đó mục tiêu quan trọng trong việc thực hiện CSTT.
(ii) Cần nâng cao hơn nữa tính độc lập tương đối cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tách bạch rõ vai trò, các giải pháp cũng như tác động của CSTT và chính sách tài khóa đến mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa CSTT, chính sách tài khóa, chính sách thương mại và đầu tư… đến mục tiêu tổng thể là ổn định kinh tế vĩ mô.
(iii) Chủ động điều hành linh hoạt, phối hợp đồng bộ các công cụ CSTT, tập trung vào điều hành lãi suất chủ động, linh hoạt để điều tiết lãi suất thị trường ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
(iv) Cần theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ trong và ngoài nước, tăng cường công tác phân tích, thống kê, để kịp thời có các đối sách phù hợp.
(v) Thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, thực hiện minh bạch đối với các kỳ vọng chính sách cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách. Phối hợp của các cơ quan truyền thông để định hướng tâm lý thị trường, hạn chế tâm lý bất lợi không đáng có, ảnh hưởng đến niềm tin của thị trường vào điều hành chính sách vĩ mô nói chung và điều hành CSTT nói riêng.
4.1.2. Bài học về ứng phó khi có khủng hoảng xảy ra
Nhật Bản đã trải qua một chu kỳ từ tăng trưởng mạnh mẽ đi đến suy sụp từ những năm cuối của thập kỷ 80 cho đến đầu thế kỷ này. Trong cả thập kỷ 90, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái kéo dài. Nhật Bản cũng trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính mang tính hệ thống. Do vậy, thập kỷ 90 của Nhật Bản được gọi là “Thập kỷ mất mát”. Khi đó, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nghiên cứu tìm hiểu những thất bại trước đó của một số ngân hàng Hoa Kỳ như Ngân hàng Quốc gia Lục địa Illinois, Ngân hàng Drexel Burnham Lambert và một số ngân hàng khác để đề ra một khuôn khổ chính sách của riêng mình vào đầu những năm 1990 để thực hiện những khoản tài chính dự phòng tại Nhật Bản. Khuôn khổ này dần dần phát triển bao gồm 4 cột trụ vào giữa thập kỷ 1990, gồm:
(i) Khi phát hiện thấy các ngân hàng thiếu vốn, các cơ quan thẩm quyền đã khuyến khích các ngân hàng này thực hiện việc cơ cấu lại và tăng vốn bổ sung từ các nhà đầu tư tư nhân.
(ii) Khi xử lý ngân hàng mất khả năng thanh toán, các cơ quan thẩm quyền cần phải khai thác mọi biện pháp, kể cả việc hỗ trợ tài chính của một ngân hàng mạnh hơn thông qua chương trình bảo hiểm tiền gửi, thành lập một công ty quản lý tài sản để tách các tài sản xấu và lập ra định chế cầu nối để duy trì hoạt động của ngân hàng bị đổ vỡ.
(iii) Ngân hàng Trung ương phải hành động với vai trò là người cho vay cuối cùng khi các ngân hàng gặp phải sức ép thanh khoản với những biểu hiện có thể tác động đến toàn hệ thống.
(iv) Khi các ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường, các cơ quan thẩm quyền cần phải cân nhắc khả năng bơm những nguồn vốn của Nhà nước. Việc tăng vốn như vậy bằng nguồn tiền ngân sách nhà nước cần phải được thực hiện với những cam kết của các nhà quản lý các ngân hàng được nhận vốn
từ nhà nước là chịu hoàn toàn trách nhiệm và các cổ đông hiện hữu phải gánh chịu những tổn thất có thể xảy ra.
Sau khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu 2007 – 2008, BOJ đã quyết định không thay đổi cả lãi suất ngắn hạn và dài hạn, cũng như quy mô chương trình mua tài sản của mình. BOJ cũng giữ nguyên đánh giá rằng kinh tế Nhật Bản đang “tăng trưởng vừa phải”, phản ánh sự khởi sắc trong xuất khẩu và chi tiêu/đầu tư, trong khi tiêu dùng tư nhân lại tỏ ra khá “dè dặt”. GDP của nền kinh tế lớn thứ ba thế giới đã giảm nhẹ trong quý I/2018, sau khi tăng trưởng 8 quý liên tiếp trước đó, chuỗi tăng trưởng dài nhất trong hơn 30 năm qua, và nhiều chuyên gia dự đoán hoạt động kinh tế của Nhật Bản sẽ hồi phục trở lại. BOJ nỗ lực đưa lạm phát lên 2%, mức mà ngân hàng này cho là phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng vững. BOJ ngày 15/6/2018 đã quyết định giữ nguyên chính sách tiền tệ siêu lỏng trong bối cảnh lạm phát vẫn “lẹt đẹt” dưới mức mục tiêu, dù các điều kiện kinh tế đã được củng cố.
Bài học rút ra cho Việt Nam là NHNN Việt Nam cần phải cảnh giác về các tình trạng bong bóng trong nền kinh tế. Trong khi tình trạng mất cân đối kinh tế ngày một lớn, nếu ít quan tâm đến sự ổn định giá cả sẽ làm cho các nhà hoạch định chính sách coi nhẹ những dấu hiệu nguy hiểm xuất hiện trong những nền kinh tế. Tình trạng mất cân đối tài chính đặc biệt phát sinh trong việc nới lỏng tín dụng mạnh mẽ, đi vay quá mức bên ngoài, giá cả tài sản tăng vọt hoặc tất cả các yếu tố này gộp lại. Đây là những thông số mà các NHNN Việt Nam cần phải theo sát.
Mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành công bước đầu trong việc chống lạm phát và chống suy giảm kinh tế, và tạo ra sự khác biệt giữa các định chế tài chính, ngân hàng, doanh nghiệp trong nước với các định chế tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, xét từ góc độ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn hệ thống ngân hàng Việt Nam cho thấy, sẽ còn nhiều khó khăn, nếu chỉ “chống” thì chưa đủ, mà cần phải “phòng” để đảm bảo lợi ích lâu dài không những cho toàn bộ nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập sâu và rộng, mà còn đối chính toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua việc tuân thủ nghiêm ngặt hơn các chuẩn mực về kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng mà Luật các TCTD và các qui định dưới luật do Chính phủ, NHTW qui định. Đặc biệt, trước những diễn biến bất lợi khó tiên lượng của nền kinh tế thế giới như hiện nay, ngoài vấn đề “chống” để giảm thiểu thiệt hại, các NHTM phải nêu cao tinh thần “phòng” tránh mọi thảm họa mới có thể xảy ra từ các yếu kém hoặc từ sự chủ quan trong quá trình kinh doanh của ngân hàng. Việt Nam cần xây dựng các công cụ dự phòng trong bối
cảnh mới đối với hoạt động tín dụng nhà đất, chứng khoán... hoặc đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát (trước – trong - sau) đối với mọi nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Đặc biệt là việc đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng, trong đó các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động cho vay nói chung cần phải được tuân thủ nghiêm ngặt hơn bao giờ hết để tránh vấn đề nợ xấu có thể tăng cao trong giai đoạn tới. Hơn nữa, trong môi trường kinh doanh không biên giới, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã đạt đỉnh cao, nên hàng loạt công cụ kinh doanh phái sinh cũng đã và đang được hình thành hàng ngày hàng giờ dựa trên nền tảng khoa học này. Đặc biệt là các công cụ phái sinh từ nhà đất, từ chứng khoán… là những nội dung mà các định chế tài chính và ngân hàng cần phải hết sức quan tâm.
4.1.3. Bài học về xử lý nợ xấu
- Thứ nhất, cần đảm bảo các điều kiện cho việc thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu: Điều kiện thực hiện các biện pháp xử lý nợ xấu ở các nước là khác nhau do bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa; trình độ phát triển của nền kinh tế, hệ thống tài chính của mỗi nước; thậm chí là tính chất và mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng, của những biến động bên ngoài đến mỗi nước là khác nhau, do đó những biện pháp được áp dụng trong xử lý nợ xấu là không giống nhau. Hoặc cũng có thể cùng thực hiện biện pháp giống nhau nhưng cách thức, mức độ và hiệu quả đem lại cũng khác nhau giữa các quốc gia. Do đó, trước khi có thể vận dụng các kinh nghiệm xử lý nợ xấu ở các quốc gia khác cho Việt Nam thì chúng ta cần đánh giá được những điều kiện để thực hiện các biện pháp xử lý nợ xấu của mình; đồng thời cải thiện những yếu tố điều kiện đó để nó không trở thành lực cản trong quá trình xử lý nợ xấu, hoặc thậm chí còn có thể trở thành nguyên nhân làm trầm trọng thêm vấn đề nợ xấu.
Cụ thể, nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự là một nền kinh tế thị trường. Sự chi phối của các yếu tố phi thị trường vừa là nguyên nhân gây ra nợ xấu, đồng thời cũng là nguyên nhân khiến cho việc áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu thiếu hiệu quả. Do đó, Việt Nam muốn áp dụng được các biện pháp xử lý nợ xấu từ kinh nghiệm của các nước thì trước hết cần phải khắc phục ngay những hạn chế nói trên, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng những biện pháp xử lý nợ xấu. Đồng thời làm minh bạch hóa hệ thống TCNH, ngăn chặn phát sinh nợ xấu, ...
Vấn đề nợ xấu sẽ đòi hỏi có một cuộc cải cách rất nghiêm túc, toàn diện trong công cuộc đổi mới về kinh tế, về chính trị và xã hội ở Việt Nam.
- Thứ hai, vai trò của chính phủ trong việc xử lý nợ xấu NHTM: Quan sát quá trình xử lý nợ xấu của Nhật Bản cho thấy, chính phủ Nhật Bản cũng như một số quốc gia khác, đều bơm vốn (bằng tiền mặt hoặc bằng trái phiếu được chính phủ bảo lãnh) cho một số ngân hàng lớn, cho các công ty xử lý nợ tập trung để ngay lập tức làm sạch sổ sách cho các ngân hàng, không gây áp lực trích lập cho các ngân hàng trong ngắn hạn, đảm bảo các ngân hàng nhận vốn đều đáp ứng các quy định về an toàn vốn để thực hiện mở rộng tín dụng cho nền kinh tế và giúp đẩy nhanh quá trình thu mua nợ của các công ty xử lý nợ tập trung. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản cũng xem xét, quyết định xóa nợ cho một số tập đoàn kinh tế nhà nước. Tất cả các khoản hỗ trợ này không mang tính bao cấp mà Chính phủ đều có các cơ chế để thu hồi. Việc cấp tín dụng đúng lúc, đúng thời điểm sẽ hỗ trợ được các ngân hàng, doanh nghiệp nhanh chóng thoát khỏi gánh nặng chi phí, nợ nần, khơi thông nguồn vốn tín dụng, duy trì, mở rộng sản xuất. Đồng thời, thông qua việc hỗ trợ tài chính từ chính phủ, HTNH cũng có điều kiện để giảm mặt bằng lãi suất, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của Nhật Bản cũng cho thấy, việc chính phủ bơm tiền để xử lý nợ xấu cần được cân nhắc thận trọng. Bài học từ Nhật Bản, chính phủ Nhật đã thực hiện 2 lần bơm tiền để giải cứu cho một số ngân hàng lớn vào tháng 3/1998 và tháng 3/1999. Hành động này của chính phủ Nhật Bản đã dẫn đến nhiều ý kiến trái chiều, do đó Việt Nam cần cân nhắc các biện pháp bơm tiền để giải cứu ngân hàng, giải quyết nợ xấu. Đồng thời, cũng do các yếu tố điều kiện về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam như đã phân tích, khi vận dụng bài học này chúng ta còn thấy có rất nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết như: Ở nước ta, nợ xấu đang ngăn cản dòng vốn từ ngân hàng chảy sang các doanh nghiệp. Nếu không giải quyết được hiện tượng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng, sẽ phát sinh tình trạng dùng tiền ngân sách giải quyết nợ xấu mà thực chất là dùng tiền thuế của dân đi cứu trợ cho các nhóm lợi ích, các ông chủ ngân hàng.
Thứ ba, về phát triển thị trường mua bán nợ xấu: Nghiên cứu kinh nghiệm xử lý nợ xấu ngân hàng ở Nhật Bản cho thấy, việc phát triển thị trường mua bán nợ xấu là rất quan trọng, quyết định đến hiệu quả xử lý nợ xấu, quyết định đến kết quả cải cách hệ thống ngân hàng. Mua bán nợ chính là một trong những biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng và áp lực nợ xấu. Việc tham gia của các thành phần kinh tế có chức năng kinh doanh mua, bán nợ xấu sẽ tận dụng được các nguồn lực xã hội, góp phần cùng AMC đẩy nhanh tốc độ và chất lượng xử lý nợ xấu.
Bài học này đối với Việt Nam có thể rút ra mấy vấn đề như sau: (i) Cần tạo điều kiện, hỗ trợ cho doanh nghiệp mua bán nợ (VAMC) thuận lợi hơn trong mua và xử lý các khoản nợ xấu. Khi Chính phủ mua lại nợ xấu của ngân hàng thông qua các AMC quốc doanh, thì Chính phủ có thể dễ dàng áp đặt các điều kiện cần thiết cho việc tái cấu trúc các ngân hàng. Ngoài ra, kết quả hoạt động kinh doanh của các AMC quốc doanh ở Nhật Bản cũng chỉ ra rằng các tỷ lệ xử lý nợ xấu tương đối cao trong các AMC quốc doanh. Tuy nhiên, cần lưu ý, các AMC có vốn sở hữu Nhà nước dễ có thể xẩy ra hành vi rủi ro gắn với các vụ tham nhũng. (ii) Cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể điều tiết toàn bộ các hoạt động liên quan đến phát triển thị trường mua bán nợ xấu. (iii) Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc đưa ra các chính sách tài chính nhằm tạo ra môi trường cho thị trường mua bán nợ xấu phát triển.
- Thứ tư, nguồn lực tài chính để xử lý nợ xấu: Kinh nghiệm sử dụng các nguồn lực tài chính để xử lý nợ xấu của Nhật Bản cho thấy, cần chú ý tính chất phù hợp của nguồn tài chính cho xử lý nợ xấu. Cơ chế xử lý nợ xấu của AMC của mỗi quốc gia tương đối khác nhau, khiến cho nguồn lực tài chính được sử dụng cũng có nhiều khác biệt, phụ thuộc vào bản chất nợ xấu trong hệ thống, quy mô nợ xấu và một số nhân tố khác. Nguồn lực để giải quyết nợ xấu cũng linh hoạt theo tính chất của khoản nợ xấu.
Về cơ bản, nguồn lực tài chính được sử dụng trong xử lý nợ xấu của các quốc gia gồm: Nguồn ngân sách chính phủ; nguồn dự phòng rủi ro từ chính các NHTM; phát hành trái phiếu; các nguồn lực tài chính khác như nguồn hỗ trợ từ cắt giảm thuế, vay nợ từ các TCTD và quỹ tín dụng khác, nguồn thu từ bán thanh lý tài sản thế chấp của các khoản nợ xấu có tài sản thế chấp nhưng không có khả năng trả nợ. Trong đó, bài học cụ thể từ các nước cho thấy:
+ Không nên xử lý nợ xấu hoàn toàn bằng nguồn ngân sách chính phủ.
+ Chỉ sử dụng dự trữ ngoại hối để xử lý nợ xấu trong tình hình nợ xấu cực kỳ nghiêm trọng, có nguy cơ gây ra khủng hoảng tài chính, kinh tế, hoặc sự đổ vỡ toàn hệ thống, đe dọa an ninh tài chính quốc gia. Nợ xấu của các NHTM phải được xử lý bằng các biện pháp kinh tế thông thường theo nguyên tắc của thị trường.
+ Quá trình cấp vốn cho các AMC cần đảm bảo tính minh bạch
4.1.4. Bài học về cải cách hệ thống ngân hàng phải đi đôi với tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước.