Cải cách hệ thống ngân hàng nhật bản giai đoạn 1990 – 2005 và một số hàm ý cho Việt Nam - 13


vai trò thiết lập hạ tầng tài chính vững mạnh cho hệ thống TCTD có thể hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả.

4.3.3. GIẢI PHÁP VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU

Từ kinh nghiệm xử lý nợ xấu như là một biện pháp trong cải cách hệ thống ngân hàng của Nhật Bản, đồng thời nghiên cứu thực trạng và những nguy cơ từ nợ xấu tác động đến hệ thống ngân hàng của Việt Nam, luận án đề xuất một số giải pháp cơ bản xử lý nợ xấu nhằm tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng trong thời gian tới như sau:

Một là, tập trung hoàn thiện khung khổ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu:

Trong thời gian qua, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu quả xử lý nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam không cao chính là do còn thiếu hành lang pháp lý, còn rất nhiều những vướng mắc khiến các chủ thể không thể xử lý nợ xấu hiệu quả. Do đó, giải pháp đầu tiên được đề xuất ở đây là tháo gỡ những khó khăn về mặt pháp lý để tạo điều kiện cho việc tiến hành các biện pháp xử lý nợ xấu hiệu quả. Khung pháp lý cho xử lý nợ xấu bao gồm: (i) Khung pháp lý chung; (ii) Cơ sở pháp lý liên quan đến bất động sản; (iii) Cơ sở pháp lý liên quan đến hành vi của nhà đầu tư; và (iv) Cơ sở pháp lý liên quan đến các yếu tố khác.

Trong các yếu tố của khung khổ pháp lý nêu trên thì Cơ sở pháp lý liên quan đến bất động sản ở Việt Nam hiện nay đang tạo nên những vướng mắc rất khó giải quyết. Phần lớn TSBĐ cho các khoản nợ xấu ở nước ta là bất động sản (chiếm tới 70%), trong khi đó bất động sản lại thuộc sở hữu của nhà nước. Điều này khiến cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài rất em ngại khi tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu ở nước ta. Giải pháp tháo gỡ vướng mắc này đòi hỏi phải có quyết tâm của chính quyền để có được những cải cách đột phá về cơ chế quản lý, về chính sách đất đai, chính sách nhà ở phù hợp với thông lệ quốc tế của một nền kinh tế thị trường phát triển.

Về yếu tố cơ sở pháp lý liên quan đến hành vi của nhà đầu tư, giải pháp đề xuất là cần tạo ra hành lang thông thoáng cho cả bên bán và bên mua nợ dễ dàng giao dịch. Muốn thế cần có cơ chế cho việc định giá nợ xấu, TSBĐ; làm các thủ tục tố tụng khi cần thiết, …

Hai là, phát triển thị trường mua bán nợ xấu:

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia, đặc biệt là kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy mua bán nợ chính là một trong những biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng. Nếu không có thị trường mua bán nợ, thì VAMC, DATC sẽ trở thành độc quyền, mà độc quyền thì sẽ dẫn đến hàng loạt vấn đề về tính minh bạch, vấn đề lợi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.


ích nhóm, hiệu quả hoạt động, tiêu cực, … Việc phát triển hoạt động thị trường mua bán nợ là hướng đi tích cực bởi nợ xấu cũng là một “hàng hóa”, đây cũng là một giải pháp để ứng phó với khủng hoảng nợ xấu trong tương lai.

Cải cách hệ thống ngân hàng nhật bản giai đoạn 1990 – 2005 và một số hàm ý cho Việt Nam - 13

Phát triển thị trường mua bán nợ xấu là cực kỳ quan trọng, nó sẽ đồng thời là giải pháp giúp VAMC thoái vốn nhanh thông qua thị trường; lành mạnh hóa tình hình tài chính của các doanh nghiệp, các TCTD; giải quyết những tồn tại về tài chính nhằm thúc đẩy quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, giao bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp thông qua việc xử lý tài sản và các khoản nợ được loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp có khó khăn trong việc bán cổ phần,… Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có thể gọi là “Môi trường xử lý nợ xấu” chứ chưa có thị trường xử lý nợ xấu hoàn chỉnh.

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản; thực tiễn tình hình mua bán nợ xấu ở Việt Nam thời gian qua, Nghiên cứu sinh đề xuất giải pháp phát triển thị trường mua bán nợ xấu trong thời gian tới, NHNN, Bộ Tài chính, Chính phủ cần: (i) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo ra môi trường lành mạnh cho thị trường mua bán nợ; là cơ sở cho những dịch vụ mua bán nợ xấu mới ra đời; đặc biệt sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường. Cụ thể, thực hiện giải pháp này cần giải quyết được 3 vấn đề: (i) Đối với các ngân hàng có nợ: Cần có cơ sở pháp lý để bán được nợ và làm các thủ tục tố tụng khi cần thiết; cần phải có các cơ quan định giá TSBĐ để giúp đưa nợ xấu ra thị trường. (ii) Đối với VAMC, các AMC của NHTM cũng cần các cơ sở pháp lý để mua nợ và sau đó có thể bán lại, đặc biệt cần cơ chế để có thể thu hút được nhà đầu tư nước ngoài. (iii) Tạo lập được “thói quen thị trường” đối với cả người mua và người bán. (ii) Hoàn thiện các chuẩn mực kế toán theo thông lệ quốc tế tạo hành lang cho thị trường mua bán nợ xấu hoạt động hiệu quả: Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được xây dựng dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS) từ những năm 2000 đến 2005 theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam tại thời điểm ban hành chuẩn mực. Tuy nhiên theo một số nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định mức độ hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế, cho thấy mức độ hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 90% (dẫn theo Võ Văn Nhị, 2011). Vì vậy cần nghiên cứu để áp dụng các chuẩn mực kế toán phù hợp, ban hành quy định và hướng dẫn cho phép xác định giá trị hợp lý của doanh nghiệp. (iii) Tiếp tục đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện TTCK: Giải pháp này sẽ giúp các cơ quan quản lý kiểm tra, điều tiết, xử lý hoạt động mua bán nợ xấu trên thị trường hiệu quả hơn; đồng thời làm tăng niềm tin của các nhà đầu tư. (iv) Phát triển


các tổ chức trung gian cho hoạt động mua bán nợ xấu: Các tổ chức trung gian bao gồm tổ chức tư vấn, định giá, dịch vụ quản lý – thu nợ, tổ chức định mức tín nhiệm,… Hiện nay ở Việt Nam rất thiếu các tổ chức trung gian này. Để thị trường mua bán nợ xấu phát triển, Việt Nam cần nhanh chóng gia tăng số lượng của các nhà môi giới, nhà tư vấn đầu tư liên quan đến mua bán nợ xấu. (v) Xem xét xây dựng sàn giao dịch chuyên biệt nhằm nâng cao tính thanh khoản cho các hàng hóa trên thị trường mua bán nợ xấu: Đây sẽ là một hệ thống trung tâm quản lý thông tin về nợ xấu (bao gồm cả thông tin liên quan đến doanh nghiệp nợ, TSBĐ, lịch sử thu hồi nợ và lịch sử giao dịch). Trung tâm này sẽ cung cấp thông tin cần thiết cho cả bên mua và bên bán trên thị trường mua bán nợ xấu. Đồng thời có thể thí điểm tại trung tâm này việc thực hiện chào mua nợ xấu công khai hoặc đấu thầu mua bán nợ xấu. Ngoài ra cũng cần hoàn thiện các quy định về công bố thông tin cho phép các nhà đầu tư dễ dàng và nhanh chóng tiếp cận các thông tin về nợ xấu; đơn giản hóa thủ tục đăng ký chuyển nhượng TSBĐ. (vi) Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm phát triển thị trường nợ xấu: Thị trường mua bán nợ xấu ở Việt Nam mới bắt đầu hình thành, do đó cần thành lập các đoàn khảo sát đi học tập ở các nước có thị trường mua bán nợ xấu phát triển và có xuất phát điểm tương tự như Việt Nam; mời hoặc thuê các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển thị trường mua bán nợ xấu trên thế giới làm cố vấn cho Việt Nam; gửi cán bộ đi học tập kiến thức về lĩnh vực mua bán nợ xấu dưới hình thức các lớp học ngắn và trung hạn tại các nước phát triển.

Ba là, vận hành Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) có hiệu quả

Việc xử lý nợ xấu của Việt Nam trong thời gian qua chỉ là gom nợ lại và chuyển vào VAMC. Tuy nhiên có thể coi đây cũng là ưu điểm trong việc làm sạch bảng cân đối của ngân hàng, an toàn hơn đối với người dân và ngân hàng, … Tuy nhiên nợ xấu vẫn còn ở đó và sẽ quay trở lại. Và việc thoái vốn của VAMC sẽ cực kỳ khó khăn do xử lý TSBĐ liên quan đến sở hữu nhà nước (BĐS), dù Quốc hội đã ban hành Nghị quyết cũng chưa thể tháo gỡ ngay được do hiện nay không có cơ sở để định giá nợ xấu, do đó cần có cơ chế tháo gỡ, giúp VAMC thoái vốn

Để VAMC hoạt động thực sự hiệu quả cần chú trọng vào một số giải pháp sau:

(1) VAMC, DATC, cần nhanh chóng tranh thủ Nghị quyết số 42/2017/QH14 “về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng”. Nghị quyết 42 trao NHTM quyền thu giữ, định giá, phát mại TSBĐ, tuy nhiên Nghị quyết này chỉ có thời hạn, do đó từ nay đến khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực, VAMC phải xử lý dứt điểm, cơ bản các khoản nợ xấu, nếu không sẽ phải chờ nghị quyết khác. Muốn làm được điều đó cần tiếp tục tăng vốn cho VAMC. Theo chuyên gia, nguồn tiền để tăng vốn cho VAMC là từ Ngân sách nhà nước.


(2) Cần xem xét lại hiệu quả của việc mua nợ dựa trên trái phiếu đặc biệt của VAMC vì trái phiếu này không được NHNN cho tái chiết khấu.

(3) Thay đổi mạnh mẽ các quy định pháp luật liên quan đến phát mãi, mua bán tài sản thế chấp hoặc công trình, dự án liên quan đến các khoản nợ xấu để công ty này có thể thực hiện việc xử lý nợ xấu tại các NHTM. Cần ban hành cơ chế phối hợp giữa VAMC với DATC cũng như với các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp của các NHTM khác (các AMC). Cần có các cơ quan định giá TSBĐ hoạt động thực sự hiệu quả (hiện nay đã có nhưng chưa hiệu quả).

(4) Xử lý nợ xấu phải đi đôi với tiếp tục tái cấu trúc doanh nghiệp mạnh mẽ hơn, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Như nguyên nhân đã nêu ở trên, nợ xấu của ngân hàng và nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước được xem là hai mặt của một đồng tiền. Do vậy, VAMC ra đời để xử lý nợ xấu trong HTNH, thì đồng thời cũng có thể giải quyết được vấn đề nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước.

Cần phải xác định rằng VAMC không phải “đũa thần” để xử lý toàn bộ nợ xấu của Việt Nam, mà VAMC phải gắn với xử lý các ngân hàng yếu kém, xử lý doanh nghiệp nhà nước, hỗ trợ thị trường BĐS, đảm bảo ổn định vĩ mô.

4.3.4. Một số giải pháp khác

- Mua bán, sáp nhập và hợp nhất các NHTM

Kinh nghiệm từ việc mua bán, sáp nhập và hợp nhất các NHTM yếu kém tại Nhật Bản cho thấy, để thực hiện thành công quá trình này, Việt Nam cần:

Thứ nhất, các văn bản pháp luật cần thống nhất khái niệm mua lại tổ chức tín dụng. Cụ thể, mua lại tổ chức tín dụng cần được hiểu là mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng bị mua lại. Sau khi mua lại, TCTD bị mua lại trở thành công ty trực thuộc của TCTD mua lại.

Thứ hai, cần có thêm quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số và bổ sung các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể gián tiếp tham gia vào hoạt động mua bán, sáp nhập các TCTD. Bên cạnh yêu cầu tổ chức tín dụng mua lại cổ phiếu của mình, đối với các cổ đông chiến lược của tổ chức tín dụng trước khi bị mua lại, hợp nhất, sáp nhập, các cổ đông này có thể yêu cầu công ty phát hành thêm cổ phiếu cho mình để họ đảm bảo được tỷ lệ nắm giữ như trước. Ngoài ra, các văn bản pháp luật cần bổ sung những chủ thể gián tiếp tham gia hoạt động mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng (công ty luật, công ty kiểm toán, công ty môi giới), kèm theo các điều kiện chặt chẽ để các chủ thể này được tham gia hoạt động mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

Thứ ba, các văn bản pháp luật cần nghiên cứu và xây dựng quy định định giá tài sản khi thực hiện mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng. Cần phản ánh được


đầy đủ giá trị hữu hình và vô hình của tổ chức tín dụng. Việc định giá một tổ chức tín dụng không nhất thiết sử dụng một phương pháp cụ thể, mà có thể áp dụng nhiều phương pháp tuỳ vào điều kiện của từng tổ chức tín dụng. Thực tiễn cho thấy, trong giao dịch M&A luôn tồn tại xung đột lợi ích giữa bên mua (muốn mua tổ chức tín dụng với giá rẻ) và bên bán (muốn bán tổ chức tín dụng với giá cao), nên nhiều thương vụ M&A thất bại chủ yếu là do vấn đề không xác định được mức giá phù hợp giữa các bên. Vì vậy, việc định giá tài sản khi thực hiện M&A cần được quy định giao cho một chủ thể trung gian độc lập như công ty kiểm toán hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp, nhằm đảm bảo tính khách quan trong xác định mức giá phù hợp.

Thứ tư, cần chuẩn hóa lại mẫu hợp đồng mua bán, sáp nhập các TCTD. Hợp đồng mẫu mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng cần được nghiên cứu và xây dựng và quy định các lĩnh vực đặc thù như (i) điều kiện mua lại và sáp nhập, (ii) quyền và nghĩa vụ các bên, (iii) Việc phối hợp giải quyết các khoản nợ tồn đọng của tổ chức tín dụng bị mua lại/sáp nhập, (iv) các điều khoản khác như giải quyết tranh chấp và phương án lao động (ngoài những nội dung đã được nêu trong Luật Doanh nghiệp và Thông tư 04/2010/TT-NHNN).

Thứ năm, cần quy định cụ thể thời điểm cung cấp thông tin khi mua bán, sáp nhập các TCTD. Để hạn chế ảnh hưởng/biến động tiêu cực trong hoạt động của các tổ chức tín dụng tham gia mua bán, sáp nhập, thời điểm công bố quy định nên được quy định là sau khi các tổ chức tín dụng đã được ngân hàng nhà nước chấp thuận, cần bổ sung quy định hợp đồng sáp nhập chỉ được ký khi các bên đã được NHNN chấp thuận sáp nhập vào khoản 4 Điều 8 của Thông tư 04/2010/TTNHNN. Bên cạnh đó, cần quy định rõ các nội dung của hợp đồng sáp nhập phải được công bố cho các chủ nợ và người lao động và những nội dung không công bố.

Thứ sáu, cần ban hành các chính sách đặc biệt ưu đãi về thuế cho các tổ chức tín dụng mua lại hoặc sáp nhập các tổ chức tín dụng yếu kém trong thời gian nhất định.

- Xử lý vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng: Các vi phạm quy định an toàn hoạt động của các NHTM liên quan đến sở hữu chéo đã được NHNN (2012) nhận diện “Nhóm lợi ích và sở hữu chéo giữa các TCTD rất lớn làm rủi ro hệ thống rất cao nếu một NH gặp khó khăn hoặc đổ vỡ”, “bằng nhiều kỹ thuật khác nhau không ít đối tượng không tuân thủ các quy định an toàn hoạt động tín dụng” “việc kiểm tra, thanh tra để phát hiện và xử lý vấn đề sở hữu chéo rất khó khăn do thiếu bằng chứng pháp lý”. Mặc dù có sự nhận diện như vậy nhưng NHNN vẫn chưa đưa ra được những bằng chứng cụ thể và có giá trị pháp lý, hơn nữa NHNN cũng chưa khẳng định được liệu những hành vi này có phạm luật hay không.


Kinh nghiệm cải cách hệ thống ngân hàng Nhật Bản cho thấy, những khó khăn này một phần xuất phát từ những lỗ hổng và bất cập của các quy định pháp lý hiện hành liên quan đến việc định nghĩa và nhận diện sở hữu chồng chéo cũng như các biện pháp chế tài đang dần trở nên không còn hiệu lực trước các hành vi phạm lỗi có tính hệ thống. Điều này đặt ra yêu cầu, một mặt cần phải sửa đổi và hoàn thiện các quy định pháp lý hiện hành liên quan đến hoạt động và giám sát ngân hàng, mặt khác cần phải nâng cao hiệu lực của sự tuân thủ và chế tài. Vì vậy, Việt Nam cần có khuôn khổ pháp lý cụ thể để hạn chế những tác động tiêu cực của sở hữu chéo như đã phân tích trong thời gian qua, cụ thể:

Thứ nhất, đối với quy định về công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu cổ phần, để phát hiện được các mối quan hệ sở hữu chéo, cần mở rộng đối tượng công bố thông tin, đặc biệt là nhóm đối tượng là người có liên quan, đồng thời cần hạ tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu ngân hàng mà ở đó chủ sở hữu phải công bố thông tin. Cụ thể, các đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu ngân hàng là: (i) Các cổ đông có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1% trở lên; (ii) người có liên quan của các cổ đông phải công bố thông tin có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1%, nhằm giúp việc xác định quan hệ sở hữu chéo dễ dàng hơn.

Thứ hai, bổ sung phạm vi quy định người có liên quan, người sở hữu cuối cùng và mở rộng đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu. Để khắc phục khó khăn trong quản lý, giám sát sở hữu, đầu tư chéo, cần hoàn thiện quy định hiện hành về xác định rõ “người liên quan“, bổ sung quy định về “người sở hữu cuối cùng“ và trao cho Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng quyền xác định “người sở hữu cuối cùng” dựa trên nguyên tắc theo luật định.

Thứ ba, đối với các quy định về thành phần của ban quản trị và ban điều hành: Cần quy định số lượng thành viên ban quản trị của NHTM theo thông lệ quốc tế: ví dụ, ban quản trị phải có tối thiểu 5 thành viên và tối đa 11 thành viên, trong đó phải có xấp xỉ 1/3 số thành viên là các thành viên độc lập và không thuộc ban điều hành của ngân hàng (IFC, 2011). Thành viên độc lập có những tiêu chí khắt khe như là cá nhân không đang làm việc cho ngân hàng, hoặc công ty trực thuộc ngân hàng, hoặc đã làm việc cho ngân hàng hoặc công ty trực thuộc ngân hàng trong một thời gian nhất định; không có mối quan hệ với những người có liên quan có sở hữu một lượng cổ phần nhất định của ngân hàng… vì các thành viên này có vai trò đưa ra các quyết định có tính khách quan và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực tới các cổ đông nhỏ lẻ do các cổ đông lớn, cổ đông có quyền kiểm soát NHTM thông qua sở hữu chéo gây ra.


Cũng cần tách biệt rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, theo đó, không cho phép thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của ngân hàng kiêm nhiệm chức vụ trong ban điều hành. Cần quy định rõ một pháp nhân không thể là thành viên ban quản trị cho dù một cá nhân đại diện cho pháp nhân đó có thể được bầu vào ban quản trị. Như vậy, cá nhân được bầu vào ban quản trị của NHTM chỉ có thể hành động với tư cách là một thành viên ban quản trị chứ không phải với tư cách là đại diện của pháp nhân, tức là cá nhân đó phải hành động vì lợi ích của tất cả các cổ đông chứ không phải chỉ vì riêng lợi ích của pháp nhân được cá nhân đó đại diện. Tương tự, cần có quy định về ban điều hành của NHTM nhằm hạn chế tình trạng sở hữu chéo có thể xảy ra như tổng giám đốc/giám đốc không được đồng thời là tổng giám đốc/giám đốc của một doanh nghiệp khác. Theo thông lệ quốc tế, tổng giám đốc/giám đốc không nên tham gia vào bất cứ hoạt động kinh doanh nào ngoài những việc liên quan tới vai trò quản lý, điều hành doanh nghiệp và việc quản trị các công ty con của ngân hàng.

Thứ tư, cần tách bạch chức năng ngân hàng đầu tư và NHTM. Luật cần bổ sung thêm các quy định liên quan đến tập đoàn tài chính đồng thời cơ quan quản lý cần có những biện pháp chế tài hạn chế các NHTM thực hiện những nghiệp vụ như ủy thác đầu tư chứng khoán.

Thứ năm, luật đã có quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của các cá nhân cũng như các tổ chức trong NHTM. Tuy nhiên, để quy định này có hiệu quả hơn, luật nên bổ sung quy định cụ thể hơn về mức sở hữu cổ phần tối đa với từng loại cổ đông (với cổ đông cá nhân có thể phân chi tiết hơn như: cá nhân tham gia quản lý, cá nhân không tham gia quản lý… và với cổ đông là tổ chức có thể phân thành các nhóm: tổ chức tài chính, tổ chức phi tài chính, tổ chức là cơ quan, DNNN…).

Thứ sáu, cần nghiêm cấm các hành vi lợi dụng sở hữu chéo để vượt qua các quy định về tỷ lệ sở hữu, giới hạn góp vốn, mua cổ phần; các quy định về hạn chế cho vay, giới hạn tín dụng cũng như phân loại, trích lập dự phòng rủi ro. Với những sai phạm bị phát hiện, cần có cơ chế xử phạt thật nghiêm bao gồm nâng các mức phạt hành chính nhằm gia tăng kỷ luật đối với các NHTM khác.

- Quản lý hệ thống ngân hàng ngầm

Hoạt động hệ thống ngân hàng ngầm tại Việt Nam đã tồn tại trong nhiều năm qua bên cạnh hệ thống ngân hàng thương mại truyền thống nhằm cung ứng nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế khi hệ thống ngân hàng thương mại truyền thống chưa đáp ứng đủ. Nhìn chung hoạt động của hệ thống ngân hàng ngầm tại Việt Nam chưa đa dạng về các sản phẩm tài chính, chủ yếu bao gồm: Cho vay ký quỹ tại các công ty chứng khoán, hợp đồng mua lại, cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại, cho vay của


các hiệu cầm đồ, cho vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế và đi vay trên thị trường tín dụng đen với lãi suất cao. Qua kinh nghiệm về quản lý hệ thống ngân hàng ngầm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, châu Âu có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam:

Thứ nhất, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ rủi ro của hệ thống ngân hàng ngầm đến sự ổn định tài chính, cần tăng cường kiểm soát, quản lý rủi ro, giám sát chặt chẽ hoạt động của các chủ thể trong hệ thống ngân hàng ngầm, nhất là hoạt động cho vay mua chứng khoán của các công ty chứng khoán hiện nay (cho vay ký quỹ) sẽ làm gia tăng tỷ lệ đòn bẩy tài chính dẫn đến rủi ro thanh khoản.

Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã từng bước kiểm soát hoạt động cho vay mua chứng khoán. Tuy nhiên, khi thị trường chứng khoán biến động xấu, sụt giảm mạnh và nhanh như giai đoạn cuối năm 2008 hay 2011 - 2012 có thể sẽ dẫn tới sự mất kiểm soát về nợ xấu của các công ty chứng khoán dẫn đến sự thua lỗ hay phá sản, ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường tài chính nói chung trong đó có hệ thống ngân hàng thương mại.

Thứ ba, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động của hệ thống ngân hàng ngầm thông qua việc thu thập dữ liệu thông tin đầy đủ về quy mô tổng tài sản, lượng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế để làm cơ sở đưa ra các đề xuất chính sách kịp thời nhằm ổn định và phát triển thị trường tài chính. Hiện nay, việc thống kê số liệu hoạt động ngân hàng ngầm còn hạn chế và gần như chưa có số liệu thống kê hằng năm, dẫn đến những khó khăn trong quá trình đề xuất chính sách.

Bốn là, phát triển hệ thống đánh giá khả năng chống đỡ với các cú sốc trên thị trường tài chính để đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro hay mức độ tổn thương của các tổ chức tài chính, ngân hàng trước những cú sốc bất lợi thông qua các chỉ số về vốn, mức độ tổn thất, tỷ lệ an toàn về thanh khoản nhằm giúp cơ quan hoạch định chính sách và các tổ chức tài chính chủ động đối phó với rủi ro.


Kết luận chương 4

Chương 4 của luận án đã tổng kết một số bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Nhật Bản từ 1990 đến nay, bao gồm: Bài học về cách thức điều tiết nền kinh tế thông qua các công cụ chính sách tiền tệ; bài học về ứng phó khi có khủng hoảng xảy ra; bài học về xử lý nợ xấu; và bài học về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng phải đi đôi với tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, Luận án phân tích thực tiễn cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó trình bày những đặc điểm của hệ thống ngân hàng Việt Nam; thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trước khi thực hiện Đề án Tái cấu trúc lần thứ nhất (giai đoạn 2011 - 2015); những biện pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã được áp dụng; một số thành tựu đạt được; những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đưa ra khuyến nghị giải pháp nhằm tiếp tục quá trình cải cách hệ thống ngân hàng của Việt Nam trong thời gian tới.


KẾT LUẬN

Vấn đề cải cách hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đang có vai trò ngày càng quan trọng trong việc bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế thực. Kể từ sau những cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu trong những thập niên gần đây, nhiều quốc gia đã tiến tái cấu trúc hệ thống ngân hàng để khắc phục những yếu kém nội tại mà qua quá trình hành trình toàn cầu hóa và kết nối tài chính toàn cầu, khủng hoảng có thể dễ dàng lan truyền và ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng của một nước.

Luận án đã hệ thống hóa các lý luận, công trình nghiên cứu và kinh nghiệm quốc tế liên quan đến vấn đề cải cách hệ thống ngân hàng, từ đó xây dựng và áp dụng khung phân tích quá trình cải cách hệ thống ngân hàng của Nhật Bản thời kỳ từ 1990 đến nay, đặc biệt tập trung vào các giai đoạn khủng hoảng với các mốc 1992-1993 (giai đoạn I); 1995 (giai đoạn II); 1997-1999 (giai đoạn III) và 2001- 2002 (giai đoạn IV) - Thời kỳ này thường được biết đến với tên gọi “Thập kỷ mất mát” của Nhật Bản; và thời kỳ Nhật Bản chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2008, để rút ra một số bài học kinh nghiệm và khuyến nghị chính sách cho quá trình tái cấu trúc các tổ chức tín dụng Việt Nam thời gian sắp tới.

Lý thuyết và kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, các biện pháp cải cách hệ thống ngân hàng gồm các biện pháp phi thị trường (như hạn chế cạnh tranh và quy mô của hệ thống ngân hàng, tăng cường cho vay chỉ định vào các lĩnh vực mà nhà nước ưu tiên, tăng cường sở hữu nhà nước trong hệ thống ngân hàng, kiểm soát lãi suất, tỷ giá hối đoái…) và các biện pháp thị trường (gồm: (i) Tái cấu trúc tài chính của ngân hàng, (ii) thị trường mua bán nợ…), trong đó, các giải pháp thị trường ngày càng chiếm ưu thế trong quá trình tái cấu trúc và cải cách hệ thống ngân hàng trên thế giới hiện nay.

Quá trình cải cách ngân hàng tại Nhật Bản được tiến hành trước Việt Nam, nguyên nhân chủ yếu do những tác động tiêu cực của khủng hoảng, được ghi nhận có cả thành công và hạn chế. Tuy nhiên, dù thành công hay thất bại thì đây vẫn là những kinh nghiệm quý báu trong quá trình hoạch định chính sách của Việt Nam nhằm thúc đẩy quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng giai đoạn sắp tới.

Nghiên cứu cho thấy, trong thời gian tới, quá trình cải cách hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cần thúc đẩy hơn nữa quá trình xử lý nợ xấu thực chất và


hiệu quả hơn, thông qua việc phát triển thị trường mua bán nợ xấu trong hệ thống ngân hàng (song song với việc hoàn thiện khung pháp lý và tăng cường năng lực cho VAMC); cũng như quan tâm hơn nữa đến xử lý các nguyên nhân mang tính hệ thống như những khía cạnh tiêu cực của vấn đề sở hữu chéo, tăng cường thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và áp dụng tiêu chuẩn quản trị rủi ro hiện đại; đồng thời kết hợp việc thúc đẩy cải cách khu vực kinh tế khác (như doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công…) để ngăn ngừa các khoản nợ xấu mới hình thành trong tương lai, bảo đảm tính hiệu quả, bền vững của quá trình tái cấu trúc và các giải pháp được áp dụng./.


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN‌


1. Phan Thị Thu Hiền, (2020), “Nguyên nhân khủng hoảng của hệ thống ngân hàng Nhật Bản vào nửa cuối thập niên 1990 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Số 556 - 557 tháng 1/2020, trang 54 - 56.

2. Phan Thị Thu Hiền, (2020), “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Nhật Bản nhằm đối phó với khủng hoảng nợ xấu giai đoạn 1990 – 2005 và hàm ý cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Số 567 tháng 6/2020, trang 40 - 42.

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí