Những Nhân Tố Tác Động Đến Cải Cách Hệ Thống Ngân Hàng Nhật Bản


Ngân hàng tín dụng Nhật Bản (NCB). Các ngân hàng tín thác (Trust bank): Tham gia vào việc quản lý, điều hành quỹ hưu trí và các quỹ tín thác khác, cũng như tham gia vào các hoạt động ngân hàng nói chung.

(3) Ngoài ra, còn có các TCTD phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các TCTC phục vụ nông lâm ngư nghiệp, các TCTC chính phủ, Liên đoàn các Hội ngân hàng. Trong đó:

Các TCTD phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bao gồm các ngân hàng tương hỗ (Mutual bank hay Sogo bank) tồn tại cho đến năm 1988 và các ngân hàng tín dụng, liên hiệp các ngân hàng tín dụng, các hợp tác xã tín dụng, và các hội tín dụng lao động. Hoạt động kinh doanh của các TCTD này bao gồm chủ yếu là nhận tiền gửi của các thành viên và cho các thành viên vay tiền, thúc đẩy các hoạt động phúc lợi của các công đoàn và các hợp tác xã tiêu dùng.

Các TCTC phục vụ nông lâm ngư nghiệp: Có ba cấp TCTC phục vụ nông lâm ngư nghiệp. Ở cấp làng, thị trấn, thị xã có các hợp tác xã nông nghiệp; ở cấp tỉnh gọi là các Liên hiệp tín dụng; ở cấp quốc gia có ngân hàng Norinchukin (Norin Chuo Ginko) – Ngân hàng hợp tác trung ương phục vụ nông lâm nghiệp.

Các TCTC chính phủ: Mặc dù các TCTC chính phủ không phải là các tổ chức nhận tiền gửi nhưng chúng bổ sung cho các hoạt động của các ngân hàng vì chúng cho khu vực tư nhân vay tiền. Liên đoàn các Hội ngân hàng (Zenginkyo): Đây là một tổ chức bao trùm của hội các nhà ngân hàng đóng ở các khu vực, đại diện cho cộng đồng ngân hàng trong quan hệ với chính phủ và công chúng.

Như vậy, qua cơ cấu trên cho thấy, HTNH của Nhật Bản hết sức phức tạp. Hệ thống tài chính Nhật Bản những năm 1990 có thể được khái quát trong 3 đặc điểm chủ yếu:

Một là, sự can thiệp sâu của chính phủ.

Hai là, ngân hàng là cơ sở của toàn bộ hệ thống tài chính.

Ba là, mang tính khép kín và hướng nội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.

Thông qua những đặc điểm nêu trên, ta có thể nhận thấy tính tập trung cao của hệ thống tài chính Nhật Bản, nhưng cũng thấy sự phụ thuộc rất lớn của hệ thống tài chính vào các NHTM - khác với Mỹ và các nước phương Tây có hệ thống tài chính dựa vào thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán ở Nhật chỉ là thứ yếu.

Hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng của Nhật Bản với những đặc điểm của nó, có thể nói, đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh Thế giới thứ hai, góp phần giúp đất nước vươn lên


mạnh mẽ từ đống đổ nát sau chiến tranh. Tuy nhiên, từ sau những năm 1970, hệ thống tài chính Nhật Bản đã bộc lộ ngày càng rõ nét những yếu kém của nó. Mặc dù trong những năm 1980, Nhật Bản nổi tiếng vì có khá nhiều ngân hàng lớn nằm trong danh sách những ngân hàng lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, nếu loại bỏ ưu thế về quy mô, thì các ngân hàng Nhật tụt hậu xa so với các ngân hàng Mỹ và châu Âu, thậm chí cả một số ngân hàng châu Á. Các ngân hàng của Nhật Bản rất thiếu năng động và linh hoạt so với các đối thủ Âu Mỹ, chậm thích ứng với những biến động của tình hình. Và sự cải cách chậm chạp, “nửa vời”. đối với HTTC, HTNH của Nhật Bản đã góp phần kéo dài sự suy thoái kinh tế của đất nước này nói chung; và những hậu quả tiêu cực đối với chính HTNH như: Hiệu quả kinh doanh của các TCTC và ngân hàng Nhật Bản so với các đối tác Âu, Mỹ rất thấp; kém linh hoạt và chậm thích ứng trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập; nợ xấu ngày càng chồng chất, đã lên đến mức báo động.

3.1.2. Những nhân tố tác động đến cải cách hệ thống ngân hàng Nhật Bản

3.1.2.1. Nhân tố bên ngoài

(i) Sự chậm trễ trong việc thực thi chính sách nhằm ngăn chặn dứt điểm và nhanh chóng vấn đề của ngành ngân hàng.

Các cơ quan quản lý tài chính Nhật Bản đã không giải quyết vấn đề của ngành ngân hàng đủ sớm và đủ nhanh và, do đó, đã không áp dụng cách tiếp cận toàn diện để giải quyết vấn đề của ngành ngân hàng cho đến sau cuộc khủng hoảng hệ thống năm 1997 - 1998. Do không có các khung pháp lý được xác định rõ ràng, hoạt động tốt để đối phó với các tổ chức mất khả năng thanh toán, nên dường như có sự do dự trong việc thực hiện các biện pháp mang tính quyết định vì sợ rằng nó có thể đẩy ngành ngân hàng tới hoảng loạn (Kanaya và Woo, 2000). Mặc dù các nhà chức trách đã đưa ra rất nhiều các biện pháp để giải quyết triệt để hơn các khía cạnh của các vấn đề ngân hàng vào năm 1996 - 1997, nhưng cách tiếp cận này vẫn không toàn diện. Có nhiều lý do lý giải cho sự chậm trễ trong việc thực thi các chính sách quyết định:

- Cách tiếp cận ban đầu dựa trên kỳ vọng rằng việc tăng trưởng kinh tế trở lại sẽ khôi phục sự lành mạnh về tài chính của các ngân hàng và khách hàng của họ.

- Chính sách tài khóa theo trường phái Keynes đã duy trì được mức tăng trưởng kinh tế tối thiểu và giúp các tập đoàn mất khả năng thanh khoản có thể tồn tại được, nhất là trong lĩnh vực xây dựng.

- Hoàn toàn không có sức ép trong nước nào - do tiết kiệm cao, không lạm phát, thất nghiệp tương đối thấp và không có bất ổn xã hội - cũng như hoàn toàn


không có hạn chế bên ngoài nào - do dự trữ ngoại hối lớn, vị thế tài sản đối ngoại ròng lớn, không có hiện tượng vốn đầu tư bỏ chạy, không có khó khăn trong cán cân thanh toán và không có khủng hoảng tiền tệ - điều này đã dẫn đến sự chần chừ, không thúc đẩy chính phủ Nhật Bản giải quyết nhanh và dứt điểm các vấn đề của ngành ngân hàng (Một trong những đặc điểm khác biệt của cuộc khủng hoảng ngân hàng Nhật Bản là không có khủng hoảng tiền tệ. Cuộc khủng hoảng “kép” – khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ - là một đặc điểm quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á đã ảnh hưởng đến Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc).

Chính phủ dường như không cảm thấy khẩn cấp hoặc cần hành động quyết liệt cho đến khi phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng hệ thống vào năm 1997- 1998. Do đó, các cơ quan tài chính đã tránh thừa nhận khách quan về mức độ nghiêm trọng, khổng lồ của nợ xấu và tình trạng Bảng cân đối tài khoản của các ngân hàng thương mại nói chung. Nếu hành động quyết liệt được thực hiện và một chiến lược toàn diện được đưa ra vào giữa những năm 1990, có thể đã tránh được cuộc khủng hoảng 1997- 1998, hoặc ít nhất tác động của nó có thể đã được giảm nhẹ.

Sự cộng hưởng của tất cả các nguyên nhân trên đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng hệ thống, tác động nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng và nền tài chính, kinh tế Nhật Bản những năm cuối thập niên 1990. Vào giữa những năm 1990, nhiều tổ chức phi ngân hàng nhỏ, bao gồm các công ty cho vay làm nhà (Jusen), và các hợp tác xã tín dụng và các ngân hàng khu vực đã bị vỡ nợ và bị thanh lý. Sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng ngày càng trở nên rõ ràng trong suốt năm 1997. Sau một số nỗ lực tái cấu trúc, Ngân hàng Hokkaido Takushoku, một ngân hàng thành phố lớn, đã không thể huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng và phải tuyên bố ngừng hoạt động kinh doanh vào tháng 11/1997, yêu cầu chuyển nhượng tài sản lành mạnh và nợ phải trả ở Hokkaido cho Ngân hàng Hokuyo. Hai công ty chứng khoán lớn là Yamaichi và Sanyo đã phá sản và hai ngân hàng lớn là Ngân hàng tín dụng Nippon và Ngân hàng tín dụng dài hạn Nhật Bản bắt đầu gặp khó khăn trong quản lý.

Do một số tổ chức tài chính gặp khó khăn hoặc phá sản đồng thời, nên giá cổ phiếu ngân hàng giảm mạnh trên thị trường chứng khoán, tạo nên một cuộc khủng hoảng toàn hệ thống. Cuộc khủng hoảng này mang tính hệ thống ở chỗ nó không chỉ giới hạn ở một vài ngân hàng. Một số ngân hàng thương mại đã không còn có thể tiếp cận được thị trường liên ngân hàng, một số ngân hàng nhỏ hơn phải chịu sự điều hành của người gửi tiền, và toàn bộ hệ thống ngân hàng Nhật Bản phải đối mặt với một


khoản tiền bảo hiểm cao khác thường từ cuối năm 1997 đến hết năm 1998 (Khả năng huy động vốn ngoại tệ, đặc biệt là bằng đô la Mỹ, của các ngân hàng đã giảm do uy tín tín dụng của họ giảm. và các ngân hàng châu Âu giảm giới hạn tín dụng áp dụng cho các ngân hàng Nhật Bản. Các ngân hàng Nhật Bản đã buộc phải huy động vốn với mức phí bảo hiểm lớn (tiền bảo hiểm Nhật Bản) từ các đối tác Hoa Kỳ và châu Âu trên thị trường liên ngân hàng. Từ cuối năm 1997 đến cuối năm 1998, mức phí bảo hiểm Nhật Bản đã tăng đáng kể, trùng với các vấn đề nghiêm trọng trên thị trường tài chính Nhật Bản, đạt kỷ lục 100 điểm vào đầu tháng 12 năm 1997 sau những thất bại của Ngân hàng Hokkaido Takushoku và Công ty chứng khoán Yamaichi. Mặt khác, cuộc khủng hoảng ngân hàng không đi kèm với một lượng lớn tiền gửi chạy ra khỏi hệ thống ngân hàng nói chung). Vào cuối năm 1998, Ngân hàng tín dụng dài hạn và Ngân hàng tín dụng Nippon đã tạm thời bị quốc hữu hóa. Từ bỏ cách tiếp cận “đoàn xe” truyền thống, Chính phủ Nhật Bản đã không còn bảo lãnh cho các ngân hàng tín dụng dài hạn lớn nữa.

(ii) Tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) giảm sút

Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của GDP trên đầu người của Nhật Bản giảm xuống mức thấp trong những năm 1990, nguyên nhân là do mức tăng của năng suất tổng nhân tố (TFP) giảm. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình ở Nhật Bản giảm từ 3,75% trong những năm 1980 xuống còn 2% vào những năm 1990. Trong cùng thời gian, tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) cũng giảm mạnh từ 1,6% xuống còn 0,2%. Sự suy giảm tốc độ tăng TFP trong nửa sau của thập niên 1990 ở Nhật Bản còn lớn hơn so với nửa đầu.

Sở dĩ mức tăng của TFP ở Nhật Bản thời kỳ 1991-2000 lại giảm mạnh là do chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu quả. Việc này khiến cho các nhà sản xuất thiếu hiệu quả lại sản xuất được một phần sản lượng nhiều thêm. Chính sách này còn hạn chế đầu tư tăng năng suất. Từ khi Nhật Bản thực hiện Các biện pháp tạm thời ổn định các ngành đặc biệt khó khăn vào năm 1988, ngay năm đó mức tăng TFP chỉ ở mức vô cùng thấp 0,64%. Ba năm trước đó, mức tăng TFP là 2,5%/năm, thế mà sáu năm sau đó, mức tăng chỉ còn là 2,18%/năm. Năng suất lao động giảm còn do phân bổ nguồn lực giữa các ngành thiếu hợp lý - nghĩa là các ngành có tiềm năng tăng trưởng mạnh lại không được đầu tư đúng mức. Còn nguyên nhân khiến có sự không hợp lý trong phân bổ nguồn lực giữa các ngành là thị trường yếu tố sản xuất kém linh hoạt.


Sử dụng mô hình tăng trưởng tân cổ điển, Hayashi và Prescott (2002) đã chứng minh rằng sự đình trệ của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1991-2000 có thể được giải thích bằng sự sụt giảm của tốc độ tăng TFP. Ở mức độ mà sự tăng trưởng TFP giảm mạnh như vậy không thể lường trước được, thì thật dễ hiểu khi các công ty vay nhiều tiền từ các ngân hàng với kỳ vọng TFP sẽ ngày càng tăng trong thời kỳ bong bóng phải đối mặt với những khó khăn trong việc đáp ứng khả năng thanh toán một khi TFP không đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Do đó, các khoản vay quá mức của thời kỳ bong bóng biến thành các khoản nợ xấu.

(iii) Tác động tiêu cực của giảm phát giá tài sản

Vào cuối những năm 1980, đã xuất hiện một bong bóng giá tài sản. Tốc độ tăng giá tài sản - Giá cổ phiếu và giá đất - nhanh hơn nhiều so với của GDP danh nghĩa. Hình 3.2. cho thấy, chọn năm 1980 làm năm tham chiếu (1980 = 100), giá đất liên tục tăng trong suốt thập niên 1980, đạt mức cao nhất vào tháng 9 năm 1991, gấp hơn bốn lần so với năm 1980 trong khi GDP danh nghĩa khi đó chỉ gấp 1,8 lần so với năm 1980. Giá cổ phiếu cũng tăng nhanh trong nửa cuối thập niên 1980, đạt mức cao nhất vào tháng 12 năm 1989, gấp gần sáu lần mức 1980. Mức độ phình to của bong bóng giá tài sản thực sự vượt quá mức biến động của GDP danh nghĩa trong những năm 1980.

Lưu ý Chỉ số giá đất đô thị là chỉ số cho sáu khu vực thành phố lớn và 1


Lưu ý: Chỉ số giá đất đô thị là chỉ số cho sáu khu vực thành phố lớn và giá cổ phiếu là chỉ số giá của Sở giao dịch chứng khoán Tokyo.

Hình 3.2. Giá tài sản của Nhật Bản, giá cổ phiếu và đất đai, 1980-2003

(Nguồn: Viện bất động sản Nhật Bản; Sở giao dịch chứng khoán Tokyo; Văn phòng nội các).

Sau khi đạt đỉnh vào cuối năm 1989, giá cổ phiếu bắt đầu sụp đổ trong hai năm sau đó, mất hơn một nửa giá trị vào đầu năm 1992. Trong khi cho thấy sự phục hồi chút ít trong giai đoạn 1993 - 1996, giá cổ phiếu lại lao dốc vào năm 1997 - 1998. Sau khi đạt đỉnh vào năm 1991, giá đất cũng bắt đầu giảm ngay sau đó, mất gần 20% giá trị vào năm 1992 và 60% vào năm 19971. Cả giá cổ phiếu và đất đều có xu hướng giảm trong suốt những năm 1990 và đầu những năm 2000.

Cả giá cổ phiếu và đất đai đều sụp đổ nghiêm trọng trong những năm 1990 như một xu hướng, và điều này đã tác động tiêu cực nghiêm trọng hơn so với dự đoán đối với nền kinh tế và ngành ngân hàng Nhật Bản. Đặc biệt, giảm phát giá đất đã làm xói mòn giá trị tài sản thế chấp của các khoản vay ngân hàng trong suốt những năm 1990.

Sự bùng nổ của bong bóng đã tạo ra những tổn thất đáng kể cho các công ty có nợ đối với các ngân hàng có tài sản thế chấp bằng bất động sản vì giá bất động sản giảm mạnh. Kết quả là các công ty mắc nợ lớn này đã không thể hoàn trả được các khoản vay của họ, gây ra các vấn đề nợ xấu cho các ngân hàng thương mại. Đáp lại, các ngân hàng thương mại dường như ngày càng không muốn tiếp tục cho các doanh nghiệp vay nữa và thậm chí bắt đầu rút các khoản vay khỏi các doanh nghiệp đã vay họ. Các ngân hàng đã không tiến hành giải quyết mạnh mẽ các khoản nợ xấu của họ ở giai đoạn đầu có lẽ vì họ đánh giá cao việc duy trì các mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và doanh nghiệp.

Do sự sụp đổ của đầu tư và nhu cầu trong nước, sự đình trệ kinh tế bắt đầu vào năm 1992. Khi các công ty mắc nợ cao đã không nỗ lực tái cơ cấu cho đến nửa cuối thập niên 1990, họ phải đối mặt với ba vấn đề cùng một lúc: Nợ quá mức, dư thừa vốn và dôi dư việc làm.

Do đó, tăng năng suất lao động bắt đầu chậm lại - có lẽ phản ánh sự chậm lại của sự gia tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Do ngày càng nhiều các công ty và tổ chức tài chính bị phá sản từ giữa đến cuối những năm 1990, nên người tiêu dùng Nhật Bản bắt đầu mất niềm tin vào tương lai vì sự sụp đổ rõ ràng của chế độ


1 Đo bằng chỉ số giá đất đô thị trong sáu khu vực thành phố lớn (Japan Real Estate Institute.)


việc làm suốt đời và thu nhập ngày càng thấp đi. Nền kinh tế dường như đã bị mắc kẹt trong một tình huống mâu thuẫn. Bất chấp việc Ngân hàng Nhật Bản thi hành nới lỏng chính sách tiền tệ, tình trạng giảm phát giá đã bắt đầu vào giữa những năm 1990, điều này đã giáng một đòn mạnh vào cách tiếp cận phát triển thái quá và làm trầm trọng thêm những khó khăn của ngành ngân hàng.

Các ngân hàng thương mại Nhật Bản bắt đầu xử lý nợ xấu vào đầu những năm 1990, ban đầu với tốc độ chậm, và sau đó với tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên, do giảm phát giá tài sản và kết quả kinh tế yếu kém, nợ xấu mới tiếp tục gia tăng. Khi giảm phát giá bắt đầu tác động vào nền kinh tế vào nửa cuối thập niên 1990, việc ngăn chặn nợ xấu ngân hàng mới xuất hiện trở nên khó khăn hơn mặc dù các ngân hàng đã nỗ lực xử lý nợ xấu (Ví dụ, số lượng các khoản cho vay được các ngân hàng lớn của Nhật Bản liệt vào loại nghi ngờ, hay thấp hơn đã tăng từ 11,7 nghìn tỷ yên vào tháng 3 năm 2001 lên 15,4 nghìn tỷ yên vào tháng 3 năm 2002 do khoản nợ xấu 9,9 nghìn tỷ yên mới xuất hiện, mặc dù đã xử lý được 6,2 nghìn tỷ yên).

Ngành ngân hàng Nhật Bản đã trải qua quá trình tái cấu trúc, tái tổ chức và củng cố, hợp nhất trên quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử, tất cả đều diễn ra trong bối cảnh một môi trường toàn cầu hóa, định hướng thị trường ngày càng tăng và điều chỉnh, bãi bỏ dần các quy định. Quá trình này được khởi động và thúc đẩy bởi những khó khăn, khủng hoảng kinh tế, tức là, việc đổ vỡ tài sản và đình trệ kinh tế bắt đầu vào đầu những năm 1990 và dẫn đến cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng năm 1997 - 1998.

Về cơ bản có bốn nguyên nhân dẫn đến những khó khăn và khủng hoảng ngành ngân hàng trong những năm 1990: (i) Tình trạng cho vay quá mức của ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực rủi ro trong điều kiện giám sát và điều tiết chung không đầy đủ đối với các ngân hàng trong thời kỳ bong bóng; (ii) Tác động tiêu cực hết sức nghiêm trọng của sự đổ vỡ bong bóng và giảm phát giá tài sản tiếp sau đó, lớn hơn nhiều so với dự đoán, biến các khoản vay ngân hàng thành các khỏan nợ xấu; (iii) Sự suy giảm không lường trước được của mức tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong những năm 1990; và (iv) Sự chậm trễ trong việc thực thi chính sách nhằm ngăn chặn dứt điểm sớm và nhanh chóng vấn đề của ngành ngân hàng.

3.1.2.2. Nhân tố bên trong

(i) Tình trạng suy thoái, khủng hoảng hệ thống ngân hàng Nhật Bản Sự sụp đổ của hệ thống “Đoàn tàu” truyền thống


Theo chính sách bảo hộ của chính phủ Nhật Bản, ngành ngân hàng từ lâu đã được hưởng quyền tiếp cận độc quyền vào thị trường tài chính nội địa được o bế, đặc trưng bởi các hoạt động đầu tư và tiết kiệm dồi dào của một nền kinh tế lớn. Chính sách truyền thống của ngành ngân hàng, được gọi là hệ thống “đoàn tàu - convoy system”, đã cố gắng duy trì một hệ thống tài chính ổn định có khả năng đóng góp cho trung gian tài chính quy mô lớn. Mạng lưới an toàn quan trọng nhất trong khuôn khổ này là ngầm bảo vệ tiền gửi thông qua việc công chúng tin rằng Bộ Tài chính (MOF) và Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) có thể tránh được những bất ổn tài chính lớn.

Ít nhất là trước năm 1991, chính sách cơ bản là tránh những thất bại của ngân hàng. Sử dụng thẩm quyền cấp phép chi nhánh của mình, BOJ đã khuyến khích các ngân hàng khỏe hơn, lành mạnh hơn tiếp quản các tổ chức không có khả năng thanh khoản, được gọi là hoạt động giải cứu hogacho, thông qua các giao dịch mua bán và giả định (P & A) không chính thức, được điều chỉnh có tính hành chính. Vì mục đích này, BOJ đã ngầm bảo vệ tất cả các khoản tiền gửi và cho phép có một số quy định cấm, và BOJ thường cung cấp hỗ trợ thanh khoản để ngăn chặn khủng hoảng ngân hàng. Hệ thống không chính thức này hoạt động tốt trong một nền kinh tế đang phát triển cộng với một mối quan hệ chính trị - quan liêu ổn định.

Tuy nhiên, vào những năm 1990, việc theo đuổi giải pháp theo kiểu hogacho ngày càng khó khăn hơn để thuyết phục các ngân hàng lành mạnh hơn tham gia vào các hoạt động giải cứu các ngân hàng gặp khó khăn khác bởi vì Bảng cân đối tài sản của ngay cả các ngân hàng tương đối mạnh cũng đang bị xấu đi đáng kể. Các cổ đông lớn và các công ty gắn với Ngân hàng Hokkaido Takushoku, Công ty Chứng khoán Yamaichi và Công ty chứng khoán Sanyo và các ngân hàng tương đối mạnh khác đều đã từ chối cung cấp hỗ trợ. Việc tạm thời quốc hữu hóa Ngân hàng Tín dụng dài hạn vào tháng 10 năm 1998 có nghĩa là sự kết thúc của hệ thống “đoàn tàu được hộ tống” không chính thức. Về cơ bản, một hệ thống như vậy đã trở nên lỗi thời,nên không thể đối phó được với áp lực thị trường dẫn đến cuộc khủng hoảng hệ thống 1997-1998.

Một nhân tố chính đằng sau áp lực thị trường là việc phi điều tiết tài chính được tiến hành từ những năm 1980, bao gồm tự do hóa lãi suất, mở rộng phạm vi kinh doanh cho các ngân hàng, cho phép các tổ chức phi ngân hàng tham gia vào hoạt động cho vay, mở cửa thị trường trong nước cho các tổ chức tài chính nước ngoài, và liên kết thị trường trong nước với thị trường tài chính toàn cầu. Ví dụ, vào cuối năm 1996, chính phủ đã công bố cải cách “Big Bang Tài chính”, một kế hoạch


chi tiết nhằm khuyến khích cạnh tranh tự do và mở cửa trong một môi trường toàn cầu hóa. Các khía cạnh chính của các biện pháp này bắt đầu được áp dụng vào cuối năm 1997. Việc bán Ngân hàng Tín dụng Dài hạn tạm thời được quốc hữu hóa cho các cổ đông nước ngoài, do Ripplewood Holdings dẫn đầu, cho thấy chính phủ quyết tâm mở cửa hệ thống ngân hàng cho các tổ chức nước ngoài.

Sự kết thúc của hệ thống “đoàn tàu” không chính thức có nghĩa là cơ quan tài chính phải thiết lập một khung giám sát và điều tiết được xác định rõ ràng dựa trên các nguyên tắc thị trường để điều tiết và giám sát ngân hàng và giải quyết các ngân hàng ốm yếu. Điều này là cần thiết bởi vì thị trường tài chính đã trở nên cạnh tranh, hội nhập và toàn cầu hơn. Từ năm 1998, các nhà chức trách đã thực thi một chuỗi các hành động, bao gồm đóng cửa hoặc quốc hữu hóa tạm thời các ngân hàng không có khả năng hoạt động, tái cấp vốn công cộng, sử dụng hành động khắc phục kịp thời, phân loại vay nghiêm ngặt hơn, bù lỗ vay lớn hơn, chuyển sang hệ thống bảo hiểm tiền gửi hạn chế,... phù hợp với hướng này.

(ii) Tình trạng cho vay quá mức của các ngân hàng và giám sát không đầy đủ trong thời kỳ bong bóng

Có nhiều nhân tố dẫn đến tình trạng các ngân hàng cho vay quá mức trong nửa cuối thập niên 1980. Trước hết, việc tự do hóa tài chính trong những năm 1980 đã cho phép các tổ chức tài chính nhỏ tham gia vào các lĩnh vực mới, đặc biệt là tài trợ cho các công ty tài chính xây dựng nhà ở (Jusen) và các khoản đầu tư bất động sản khác (Các công ty cho vay xây dựng nhà ở (Jusen) được thành lập bởi các ngân hàng và tổ chức tài chính để thực hiện thế chấp nhà ở. Ban đầu họ cho chủ sở hữu nhà vay nhưng việc kinh doanh của họ dần dần chuyển sang lĩnh vực phát triển bất động sản. Các công ty cho vay xây nhà này đã gặp phải vấn đề nợ xấu trong nửa đầu thập niên 1990 do giá bất động sản sụp đổ). Sự phát triển này, cùng với việc bãi bỏ các quy định khác, ví dụ dỡ bỏ việc kiểm soát lãi suất và những hạn chế cho vay phi ngân hàng, khiến cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính ngày càng mạnh và lãi suất giảm trở nên phổ biến. Đáp lại, các ngân hàng càng đẩy mạnh cho vay rủi ro hơn, như cho vay tiêu dùng, cho vay bất động sản và cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi tại đó, khung pháp lý và giám sát tỏ ra không phù hợp.

Thứ hai, việc phi điều chỉnh các thị trường vốn cho phép các doanh nghiệp lớn ngày càng chuyển từ các ngân hàng sang thị trường trái phiếu trong nước và bằng đồng euro để gây quỹ (Hoshi và Patrick 2000). Sự thay đổi này đã khiến các ngân hàng lớn ngày càng hướng các khoản vay của mình sang các công ty tiếp cận hạn chế


các thị trường vốn trong nước và quốc tế. Do đó, cấu thành khách hàng của các ngân hàng đã thay đổi từ các công ty sản xuất sang các công ty phi sản xuất và từ những người vay rủi ro tín dụng thấp đến cao. Các ngân hàng đã dành quá nhiều các khoản vay cho các công ty trong lĩnh vực bất động sản, xây dựng, phân phối và tài chính, vốn ít phải đương đầu với sự cạnh tranh trên thị trường, không giống như các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, và do đó đã bị kém hiệu quả hơn, kém năng suất và rủi ro hơn.

Thứ ba, tại thời điểm bong bóng giá tài sản, các ngân hàng và các công ty vay vốn đã kỳ vọng không đúng vào tăng trưởng kinh tế cao, do đó cho phép mở rộng hơn nữa các khoản vay dựa trên tài sản thế chấp trong điều kiện chung là lãi suất thấp và khuôn khổ giám sát và cảnh báo đối với các ngân hàng hoàn toàn không phù hợp. Giám sát không thận trọng đã dẫn đến việc công khai dữ liệu tài chính không phù hợp, cung cấp không đầy đủ các thông tin về các khoản vay thua lỗ, và việc không vốn hóa không đầy đủ, đồng thời các ngân hàng thương mại đã không giám sát chặt chẽ để đánh giá và định giá rủi ro tín dụng để quản lý rủi ro hợp lý. Cho vay dựa trên tài sản thế chấp đã làm cho các ngân hàng nới lỏng việc giám sát chặt chẽ các công ty đi vay.

Vào cuối những năm 1980 chứng kiến sự mở rộng không chỉ của các khoản vay ngân hàng mà còn cả đầu tư vốn và việc làm lao động. Bong bóng vỡ sau khi chính quyền siết chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và áp đặt mức trần tín dụng đối với các khoản vay ngân hàng liên quan đến bất động sản vào những năm 1990 - 19912. Sự đổ vỡ của bong bóng vào đầu những năm 1990 đã biến các khoản vay quá mức thành các khoản nợ xấu từ phía các ngân hàng.

Tác động của tình trạng suy thoái, khủng hoảng hệ thống ngân hàng Nhật Bản:

Tác động đến hoạt động kinh tế vĩ mô

Có hai quan điểm trái ngược nhau về việc liệu vấn đề của ngành ngân hàng có tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế thực sự hay không. Quan điểm của Hayashi và Prescott (2002) là sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng Nhật Bản không chịu trách nhiệm về sự đình trệ kinh tế kéo dài hàng thập kỷ, mà chính sự tăng trưởng thấp của TFP mới là nguyên nhân của sự đình trệ đó. Về cơ bản, họ không tìm thấy bằng chứng nào về “sự đổ vỡ tín dụng” – có lẽ ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn từ


2 Nguyên nhân và hậu quả của giảm phát giá tài sản trong những năm 1990 đã được ghi nhận rõ ràng. Xem ví dụ Hoshi và Kashyap (1999), Cargill, Hutchison và Ito (2000) và Kanaya và Woo (2000).


cuối năm 1997 đến đầu năm 1998 - vì cả các công ty lớn lẫn các công ty nhỏ đều có thể tìm được nguồn tài trợ cho các cơ hội đầu tư sinh lời.

Mặt khác, Dekle và Kletzer (2003) lại ủng hộ quan điểm cho rằng vấn đề của ngành ngân hàng có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở bền vững theo mô hình tăng trưởng kinh tế nội sinh với các ngân hàng thương mại. Khi các cơ quan chức năng bảo vệ tiền gửi ngân hàng (một cách công khai hoặc ngấm ngầm) và cho phép hoãn nợ theo quy định để các ngân hàng có thể tích lũy nợ xấu mà không bù đắp các khoản dự phòng tổn thất cho vay, chi phí xử lý nợ xấu cuối cùng sẽ do người nộp thuế chi trả. Các khoản thuế cao hơn cần thiết để phục hồi ngành tài chính sẽ làm suy giảm tăng trưởng kinh tế. Họ thấy rằng các động lực được mô hình này dự đoán phần lớn phù hợp với hành vi gần đây của tập hợp kinh tế, giá tài sản và hệ thống ngân hàng Nhật Bản.

Breweer, Genay, Hunter và Kaufman (2003) cung cấp một bằng chứng khác để khẳng định quan điểm rằng vấn đề của ngành tài chính gây ra tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Họ nhận ra rằng những tuyên bố về thất bại của 3 ngân hàng, Ngân hàng Hokkaido Takushoku vào năm 1997 và Ngân hàng tín dụng dài hạn và Ngân hàng tín dụng Nippon năm 1998 đã có tác động tiêu cực đến giá cổ phiếu của hơn

1.000 công ty Nhật Bản, cả khách hàng và không phải khách hàng của các ngân hàng thất bại này. Họ cũng thấy không có sự khác biệt đáng kể trong tác động giữa các công ty khách hàng và không khách hàng. Những phát hiện này cho thấy rằng các thất bại của các ngân hàng là “tin xấu” cho tất cả các công ty trong nền kinh tế, không chỉ đối với các công ty có mối quan hệ với các ngân hàng thất bại.

Do đó, vẫn còn một vấn đề là liệu sự đình trệ kinh tế trước cuộc khủng hoảng ngân hàng 1997- 1998 có phải là do các vấn đề của ngành ngân hàng xấu đi hay do sự tăng trưởngchậm lại của TFP. Nhưng có lẽ việc bùng phát khủng hoảng ngành ngân hàng đã tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế nói chung, đặc biệt đã làm giảm niềm tin của người dân đối với nền kinh tế, điều này có thể làm trầm trọng thêm tác động tiêu cực đến từ tăng trưởng TFP thấp hơn. Một số đổ vỡ tín dụng dường như cũng đã đóng một vai trò nào đó [Motonishi và Yoshikawa (1999)].

Tác động đến chính sách tài chính và tiền tệ

Khó khăn của ngành ngân hàng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách tiền tệ và điều kiện tài khóa của Nhật Bản.

Kể từ sau sự sụp đổ của bong bóng giá tài sản vào đầu những năm 1990, một

loại cung tiền rộng lớn, như M2 + CD, đã không tăng nhanh, bất chấp BOJ đã thi


hành các chính sách tiền tệ có vẻ dễ dàng hơn. BOJ đã giảm lãi suất chiết khấu chín lần trong khoảng thời gian từ 1991 đến 1995 và cuối cùng áp dụng chính sách lãi suất bằng 0 (tháng 2 năm 1999). Theo chính sách lãi suất bằng 0, BOJ đã chuyển sang sử dụng nới lỏng định lượng (tháng 3 năm 2001) để đưa một số lượng tiền tệ vào hệ thống ngân hàng. Bất chấp chính sách tiền tệ nới lỏng truyền thống và phi truyền thống, M2 + CD đã không tăng trưởng nhanh, phản ánh sự co lại dai dẳng của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (xem Hình 3.1).

Hình 3 1 Cung ứng tiền và các khoản vay ngân hàng của Nhật Bản 1980 - 2003 2

Hình 3.1. Cung ứng tiền và các khoản vay ngân hàng của Nhật Bản, 19802003

Nguồn: Ngân hàng Nhật Bản, Thống kê tài chính và kinh tế hàng tháng.

Các ngân hàng thương mại gánh nhiều khoản nợ xấu lớn đã trở nên không thích rủi ro và đã ngừng mở rộng các khoản vay mới, hoặc thậm chí đã thu hồi các khoản tiền đã cho các công ty vay. Thay vào đó, họ đã tăng nắm giữ trái phiếu chính phủ dài hạn (JGBs) như tài sản an toàn của người dùng. Mặt khác, các công ty mắc nợ đã không còn muốn đi vay nữa, đặc biệt là trong môi trường kinh tế trì trệ, và thay vào đó họ đã hoàn trả các ngân hàng các khoản vay để giảm nợ.

Về cơ bản, các ngân hàng thương mại đã không thực hiện đúng chức năng trung gian tài chính. Điều này cho thấy rằng, trừ phi ngành ngân hàng loại bỏ vấn đề bảng cân đối tài sản và khôi phục được sự lành mạnh về tài chính, còn không thì nó sẽ

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí