Về kiểm tra sử dụng vốn vay: cán bộ thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay không theo quy định, nội dung kiểm tra sơ sài, chung chung, không thu thập đủ các chứng từ chứng minh việc sử dụng vốn dẫn đến việc ngân hàng không kiểm soát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng.
Về tài sản đảm bảo: nhận các tài sản thế chấp không đủ điều kiện đảm bảo theo quy định, việc định giá lại tài sản đảm bảo chưa hợp lý, các sai sót trong hợp đồng bảo đảm, v.v.
- Thứ hai, yếu kém trong việc thực thi công tác thu hồi nợ tại các chi nhánh làm cho hiệu quả thu hồi nợ giảm sút. Chi nhánh không quyết liệt khi phát hiện nợ xấu và nợ quá hạn dẫn đến tình hình khách hàng quá xấu thì khách hàng chây ỳ, bỏ trốn và chi nhánh bị động trong việc xử lý.
- Thứ ba, Tổ chức nhân sự tại một số chi nhánh có vấn đề như chưa c cơ chế đánh giá, xếp loại, thưởng phạt xứng đáng cho cán bộ xử lý nợ và đội ngũ thu hồi nợ vừa thiếu vừa yếu, chưa c kinh nghiệm trong công tác xử lý nợ
Các nguyên nhân khách quan cho những tồn tại trong hoạt động thu hồi nợ vay của khách hàng cá nhân tại Vietcombank bao gồm:
- Một là ảnh hưởng tiêu cực từ nền kinh tế, cụ thể, một số đối tượng khách hàng cá nhân truyền thống của Vietcombank hoạt động trong các ngành như: bất động sản sẽ gặp phải nhiều kh khăn khi thị trường bất động sản đ ng băng trong thời gian qua; với ngành kinh doanh thu mua - xuất khẩu mặt hàng thủy sản (tại khu vực Tây Nam Bộ) cũng đang trải qua giai đoạn kh khăn khi nhiều thị trường từ chối nhập khẩu thủy sản Việt Nam.
- Hai là vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo có giá trị thanh lí thấp. Khách hàng có tâm lý không muốn bán tài sản đảm bảo; việc định giá tài sản đảm bảo để xử lý quá cao so với giá trị thị trường; việc đấu giá gặp nhiều kh khăn v.v.
- Ba là khung pháp lý, cơ chế đặc thù và hỗ trợ của cơ quan chức năng cho hoạt động thu hồi nợ từ khách hàng cá nhân còn nhiều hạn chế. Từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm, Tòa án, cơ quan thi hành án ngại nhận hồ sơ, quá trình xử lý qua
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam - 2
- Tổng Quan Về Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam Và Những Biểu Hiện Khách Hàng Cá Nhân Không Trả Được Nợ Tại Ngân Hàng Thương
- Tỷ Trọng Dư Nợ Cho Vay Khách Hàng Cá Nhân Của Vietcombank Giai Đoạn 2013 – 2018
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Khả Năng Trả Nợ Vay Của Nông Hộ Theo Trương Đông Lộc Và Nguyễn Thanh Bình
- Các Đặc Trưng Thống Kê Mô Tả Của Mẫu Nghiên Cứu:
- Kết Quả Kiểm Định Mức Độ Dự Báo Chính Xác Của Mô Hình Ban Đầu
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
khởi kiện, thi hành án diễn ra rất chậm, Uỷ Ban Nh n D n, công an không c cơ chế hỗ trợ ngân hàng trong xử lý tài sản đảm bảo.
- Bốn là nhận thức của cộng đồng với việc thu hồi nợ của ngân hàng còn nhiều hạn chế, phiến diện. Cộng đồng vẫn cho rằng Ng n hàng luôn là “kẻ mạnh”, bên vay vốn là “kẻ yếu” và ý thức trách nhiệm đối với việc sử dụng vốn vay của khách hàng thấp.
3.4. Nhận xét đánh giá các yếu tố tác động đến hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Vietcombank:
Từ tình hình thực tế về hoạt động cấp tín dụng cho khách hàng cá nhân tại Vietcombank nêu trên, kết hợp với kinh nghiệm làm việc thực tế, tác giả xin trình bày một số các yếu tố tác động đến hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Vietcombank. Ta có thể phân loại các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay của khách hàng cá nhân thành 2 nhóm chính:
- Nhóm 1 – Các yếu tố liên quan đến nhân thân của khách hàng: Độ tuổi; Giới tính; Tình trạng hôn nh n; Trình độ học vấn; Thời gian công tác chuyên môn; Tiền án tiền sự; Số người phụ thuộc; Số người lao động trong gia đình; Tình trạng sở hữu nhà ở; Tình trạng sở hữu các tài sản có giá trị khác (xe, điện thoại, v.v.); Đặc điểm cư trú; Loại hình công việc; Thu nhập ròng hàng tháng.
Nhóm này thể hiện trình độ nhận thức, mức độ bền vững của thu nhập từ sự ổn định trong nghề nghiệp, các đặc trưng cá nh n của người đi vay, đồng thời đánh giá các tác động xung quanh từ gia đình, đặc điểm cư trú, c ảnh hưởng đến khả năng tài chính của khách hàng.
- Nhóm 2 – Các yếu tố liên quan ngân hàng
Là nhóm yếu tố quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khoản vay và khả năng trả nợ của khách hàng: Giá trị nợ; Giá trị tài sản đảm bảo; Các giao dịch tín dụng khác đang thực hiện; Số lần vay nợ; Lãi suất vay; Thời gian vay.
Về xu hướng tác động của các yếu tố này đối với khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân, tác giả xin trình bày cụ thể hơn ở Chương 4 của luận văn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương này, luận văn đã đi s u vào ph n tích thực trạng cho vay khách hàng cá nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nh n, trong đ :
- Người viết đã nêu bật quá trình tăng trưởng mảng cho vay khách hàng cá nhân tại Vietcombank trong những năm vừa qua thông qua các chỉ tiêu ư nợ cho vay, doanh số cho vay với mức tăng ròng và tốc độ tăng trưởng tương đối. Ngoài ra, phần này cũng đánh giá hiệu quả của hoạt động thu nợ từ cho vay khách hàng cá nhân tại Vietcombank thông qua các phân tích các dữ liệu về doanh số thu nợ, thu hồi nợ quá hạn và nợ xấu. Người viết cũng đánh giá tình hình thu nợ qua hệ số thu hồi nợ, kết luận những thành tựu đạt được, hạn chế và nguyên nhân gây ra những tồn tại trong hoạt động thu nợ tại Vietcombank.
- Trên phương iện các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay của khách hàng cá nh n, người viết đã làm rõ quan điểm và kinh nghiệm thực tiễn tại Vietcombank về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân.
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TRẢ NỢ CỦA KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
Từ các ph n tích, đánh giá về hoạt động cho vay của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam ở Chương 3, c thể thấy được việc nghiên cứu mô hình đánh giá khả năng trả nợ vay của khách hàng cá nhân tại Vietcombank là một việc làm cần thiết góp phần giúp cho công tác thẩm định cho vay thêm chặt chẽ và hạn chế rủi ro.
4.1. Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân:
4.1.1. Khả năng trả nợ:
Hiện tại, khái niệm “khả năng trả nợ vay” của khách hàng vẫn chưa được định nghĩa một cách thống nhất và chính xác.
Alex White (2008), định nghĩa khả năng trả nợ vay của khách hàng cá nhân là khả năng tạo ra nguồn thu tài chính hay thu nhập đủ để hoàn thành các cam kết hoàn trả tiền vay định kỳ theo hợp đồng tín dụng.
Một số nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu biểu hiện “khách hàng không c khả năng trả nợ” hay “nợ không thể thu hồi”, “nợ xấu”, từ đ xác định khách hàng có khả năng trả nợ là khách hàng không có những biểu hiện nói trên. Theo Basel Committee on Banking Supervision (2006), khách hàng “không c khả năng trả nợ” có một hoặc tất cả đặc điểm sau đ y: người đi vay không c khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán đầy đủ khi đến hạn, không kể việc ngân hàng phải phát mãi tài sản và khoản nợ xấu của người đi vay trên 90 ngày
Pháp luật Việt Nam quy định các khoản nợ xấu là nợ được các tổ chức tài chính đánh giá là không c khả năng hoàn trả. Việc phân loại nợ xấu được quy định cụ thể trong Quyết định 49/2005/QĐ-NHNN, Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN và Thông tư 02/2013/TT-NHNN. Trong đ c 5 loại nợ ứng với mức rủi ro tăng ần từ 1 đến 5. Nợ xấu bao gồm các khoản nợ được phân loại từ nh m 3 đến nhóm 5, cụ thể: (i) nợ có khả năng mất một phần vốn (nợ nhóm 3); (ii) nợ có khả năng tổn thất
cao (nợ nhóm 4); (iii) nợ không còn khả năng thu hồi (nợ nhóm 5). Nợ nhóm 2 vẫn cần phải được lưu ý, vì khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm. Ngoài việc căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành, các ngân hàng ở Việt Nam vẫn thường dựa vào tình hình thu hồi nợ thực tế từ khách hàng để đánh giá khả năng trả nợ. Trong phạm vi luận văn, tác giả sẽ sử dụng khái niệm “khả năng trả nợ vay của khách hàng” ựa trên tình hình trả nợ thực tế của khách hàng và các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
4.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân:
Có thể thấy rằng không có một nghiên cứu nào khẳng định chính xác tuyệt đối về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay của khách hàng cá nhân, các nghiên cứu trước đ y đều được thực hiện cho một nhóm khách hàng nhất định, tại một hoặc một số đơn vị nhất định.
Sau đ y, tác giả xin khái lược một số nghiên cứu trước đ y về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân. Từ đ , làm nền tảng định tính cho mô hình nghiên cứu trong luận văn này.
4.1.2.1. Các yếu tố liên quan đến nhân thân của khách hàng cá nhân:
Nhóm yếu tố này bao gồm 7 yếu tố liên quan đến khách hàng vay.
Số tiền vay:
Sumit Agarwal (2008), trong nghiên cứu về xác định khả năng hoàn trả của khách hàng cá nh n trong tương quan với tỷ lệ số tiền vay phải trả định kỳ và sự thay đổi lãi suất cho vay. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng:
Về phương iện thu nhập, khi thu nhập trên số tiền vay phải trả định kỳ tăng lên thì khả năng trả nợ cho khách hàng cá nh n cũng tăng theo. Điều này phù hợp với suy luận thông thường vì khi tỷ lệ thu nhập trên số tiền vay phải trả định kỳ tăng lên đồng nghĩa với khả năng tài chính của khách hàng cao hơn.
Thời hạn vay:
- Theo nghiên cứu của Đinh Thị Thanh Huyền và Stefanie Kleimeier (2007), về mô hình chấm điểm tín dụng cho mảng tín dụng cá nhân tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Các tác giả đã lấy mẫu dữ liệu của 56.037 khoản vay
từ các ng n hàng thương mại trong khoản thời gian 1992-2005. Sử dụng mô hình hồi qui Logit để kiểm định 16 biến được đưa vào mô hình là: thời gian giao dịch với ngân hàng, giới tính, số lần vay vốn, thời gian vay, tình trạng cư trú, vùng miền cư trú, số lượng tiền gửi, giá trị tài sản bảo đảm, số người phụ thuộc, thời gian làm công việc hiện tại, tình trạng hôn nhân, loại tài sản thế chấp, số điện thoại bàn, trình độ học vấn và mục đích vay vốn. Kết quả chạy mô hình cho thấy các yếu tố và thời gian vay vốn có ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Nhóm yếu tố về năng lực của người vay:
Đối với nhóm yếu tố này, tác giả xem xét về các yếu tố như: tình trạng công việc, thu nhập của người vay và tình trạng nhà ở.
- Theo một nghiên cứu của John M. Chapman (1940), đã đưa ra bốn nhân tố lớn ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng như: đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm nghề nghiệp (năng lực của người vay), đặc điểm thu nhập, đặc điểm học vấn và đặc điểm khoản cho vay.
Đặc điểm nhân khẩu học bao gồm: tuổi tác, giới tính và tình trạng hôn nhân. Theo Miler (2012), nữ giới ít tạo ra rủi ro tín dụng hơn nam giới do họ cẩn trọng hơn và ít g y ra các rủi ro đạo đức hơn. Và theo nghiên cứu của Chapman (1990), Weber và Musshoff (2012), họ cũng đồng tình với ý kiến trên.
Năng lực của người vay bao gồm: trình độ học vấn, đặc điểm nghề nghiệp và đặc điểm thu nhập. Người đang làm công việc đòi hỏi trình độ cao hay ngược lại, người đang làm công việc có tính chất ổn định cao hoặc ngược lại.
- Chapman (1990), thì tác giả đưa ra kết luận khả năng trả nợ từ cao đến thấp như sau: thu nhập cao, thu nhập thấp, thu nhập trung bình.
- Livingston và Lunt (1992), họ thấy rằng những người có thu nhập cao và chưa trưởng thành thường sử dụng dịch vụ tín dụng của ngân hàng.
- Trong một nghiên cứu khác, Kohasal và Mansoori (2009), về khả năng trả nợ của người nông dân tại tỉnh Khorasan-Razavi của Iran đã cho kết quả là người nông dân nào có kinh nghiệm càng l u năm thì khả năng trả nợ càng cao.
- Tuy nhiên, một nghiên cứu của Accquah và Addo (2011), về khả năng trả nợ của người dân Ghana thì lại không tìm được mối qua hệ giữa kinh nghiệm làm việc và khả năng trả nợ của họ.
- Theo một nghiên cứu khác của Kohasal và Mansoori (2009), đã phát hiện thêm yếu tố đạo đức của người vay cũng ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay của họ.
Yếu tố số người phụ thuộc trong gia đình:
- Black and Morgan (1998), rủi ro vỡ nợ chịu tác động của các yếu tố xã hội và yếu tố nhân khẩu học (cụ thể là qui mô gia đình) của người vay.
- Crook (2001), họ tìm thấy rằng yếu tố về thu nhập, sở hữu nhà riêng và số lượng thành viên trong gia đình c ảnh hưởng tích cực đến mức độ vay nợ của các hộ gia đình.
- Duca và Rosenthal (1993), họ cũng tìm được mối liên hệ giữa thu nhập, mức độ giàu có, số lượng thành viên trong gia đình và nhu cầu vay vốn của các hộ gia đình tại Mỹ.
Yếu tố về độ tuổi:
Crook (2001), tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố như độ tuổi, thu nhập, tình trạng sở hữu nhà, nghề nghiệp, nghiên cứu rút ra kết luận là: một gia đình ít nợ hơn khi người chủ hộ trên 55 tuổi và không c ý định rủi ro trong khi một gia đình sẽ c ư nợ nhiều hơn khi c thu nhập cao hơn, sở hữu nhà riêng và người chủ hộ vẫn đang làm việc.
Lịch sử nợ quá hạn:
Theo nghiên cứu của Vương Qu n Hoàng cùng các cộng sự vào năm 2006 về việc xây dựng mô hình xác định mức tín nhiệm khách hàng cá nhân. Nhóm tác giả đã sử dụng dữ liệu là mẫu 1.727 khách hàng có quan hệ tín dụng với
Techcomank từ mô hình hồi qui Logit phân tích 16 biến bao gồm: tuổi tác, trình độ học vấn, loại hình công việc, thời gian làm việc, thu nhập hàng tháng, tình trạng hôn nh n, nơi cư trú, thời gian cư trú, số người phụ thuộc, phương tiện đi lại, phương tiện thông tin, chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu, giá trị tài sản khách hàng, giá trị các khoản nợ, quan hệ với Techcombank và uy tín trong giao dịch. Căn cứ vào kết quả chạy mô hình tác giả đã không tìm được sự tác động rõ ràng của 2 biến thời gian công tác và uy tín trong giao dịch vì có sự phụ thuộc tuyến tình của 2 biến này với các biến khác và hệ số beta không ổn định. Trong các biến còn lại thì biến thu nhập hàng tháng, chênh lệch thu nhập và chi tiêu, giá trị tài sản của khách hàng c tác động cùng chiều đến khả năng trả nợ của khách hàng, các biến còn lại c tác động trái chiều đến biến phụ thuộc.
Thực tế cũng cho thấy, việc khách hàng đã từng có nợ quá hạn ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng trả nợ của khách hàng của những lần vay sau.
Mục đích sử dụng vốn:
Mục đích sử dụng vốn ở đ y tác giả xin để cập đến các mục đích vay của khách hàng cá nh n như: vay mua nhà, vay kinh oanh và vay với mục đích tiêu ùng khác.
Chưa c một nghiên cứu cụ thể nào xét về sự ảnh hưởng của mục đích sử dụng vốn c tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân hay không. Trong luận văn này, tác giả muốn tìm xem: mục đích sử dụng vốn có ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cá nhân tại Vietcombank hay không ?
4.1.2.2. Nhóm 2 – Các yếu tố liên quan đến ngân hàng:
Tỷ lệ tài sản bảo đảm:
- Macana (2006), bổ sung thêm yếu tố rủi ro tác nghiệp từ phía ngân hàng. Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng mắc các sai lầm trong khâu thẩm định giá trị tài sản và chấm điểm xếp hạng khách hàng.