bên thứ ba sử dụng và hưởng quyền. Vì vậy, bên thứ ba sử dụng quyền đối với các tài sản trí tuệ trong trường hợp này không bị coi là phạm tội.
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm SHTT cũng có những giới hạn nhất định gắn đặc trưng của quyền SHTT. Việc bảo vệ tài sản vô hình chủ yếu được thực hiện thông qua thừa nhận hệ thống các quyền dành cho chủ sở hữu và các chủ thể có liên quan khác. Pháp luật quốc gia và quốc tế trao cho các chủ thể này những độc quyền, trên cơ sở đó, những hành vi xâm phạm quyền SHTT bị ngăn chặn và xử lý [61, tr.12]. Một số độc quyền có thể kể đến như chủ sở hữu có quyền sử dụng; đồng thời cho phép hoặc ngăn cấm người khác sử dụng các tài sản trí tuệ của mình, chẳng hạn: Trong lĩnh vực bản quyền, quyền sử dụng có thể được hiểu là việc tạo nên tác phẩm phái sinh, biểu diễn tác phẩm trước công chúng, sao chép tác phẩm, phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau; đồng thời cũng có thể cho thuê bản gốc, bản sao các tác phẩm… Trong lĩnh vực SHCN, quyền sử dụng có thể được thực hiện qua các hành vi khai thác, ứng dụng vào sản xuất, lưu thông, nhập khẩu các sản phẩm sản xuất theo sáng chế, sử dụng nhãn hiệu gắn lên các sản phẩm, dịch vụ… Tuy nhiên, các độc quyền này thường không toàn diện và tuyệt đối trong nhiều trường hợp bởi vì bị chi phối bởi nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa cá nhân (chủ sở hữu) với cộng đồng (xã hội) nhằm tạo động lực thúc đẩy, phát triển hoạt động nghiên cứu sáng tạo, sản xuất, kinh doanh, hướng tới mục tiêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người và toàn xã hội. Điều này cũng có nghĩa, chủ thể quyền SHTT có thể bị giới hạn quyền năng của mình đối với việc sở hữu tài sản trí tuệ trong một số phạm vi nhất định. Do đó, đối với trường hợp hành vi có khả năng gây thiệt hại đáng kể cho quyền SHTT nhưng thuộc trường hợp quyền năng này bị giới hạn thì hành vi đó không phải tội phạm, ví dụ: vì lợi ích cộng đồng nên một số sáng chế (như vacxin chống đại dịch toàn cầu) cần được chia sẻ và giới hạn tính độc quyền.
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm SHTT có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực SHTT. Nói cách khác, chỉ những hành vi xâm phạm ở mức độ đáng kể, cần phải xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất mới trở thành hành vi khách quan của các tội xâm phạm SHTT. Đặc trưng này có thể gắn với các đặc điểm về đối tượng tác động, hậu quả của tội phạm, quy mô của hành vi… ví dụ: cùng là hành vi sử dụng trái phép
nhưng nếu đối tượng đó là nhãn hiệu đang được bảo hộ hợp pháp sẽ có mức độ nguy hiểm khác với kiểu dáng công nghiệp; hoặc cùng là hành vi sao chép trái phép các tác phẩm nghệ thuật đang được bảo hộ ở quy mô thương mại sẽ khác với trường hợp ở quy mô cá nhân phục vụ học tập nghiên cứu. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ của các nhà xây dựng và giải thích pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT là cần làm rõ được ranh giới này.
*Hậu quả thiệt hại do hành vi khách quan gây ra
Về lý thuyết, hậu quả của tội phạm là các thiệt hại do hành vi khách quan gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự [100, tr.127]. Hậu quả của các tội xâm phạm SHTT là gây thiệt hại cho quan hệ SHTT, cụ thể là gây thiệt hại cho chủ thể quyền SHTT. Hậu quả của tội phạm còn có thể là các thiệt hại cho lợi ích, uy tín của người sản xuất kinh doanh hợp pháp và lớn hơn là gây thiệt hại cho trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Thiệt hại mà các tội xâm phạm SHTT gây ra gồm các thiệt hại vật chất (cụ thể là thiệt hại về tài sản) và phi vật chất cho xã hội (như tổn hại về danh dự, uy tín... cho chủ sở hữu quyền).
Không chỉ dừng lại ở khả năng gây thiệt hại vật chất, tinh thần cho chủ thể quyền, các tội xâm phạm SHTT còn có thể gây ra những tổn thất cho các doanh nghiệp, người lao động do thiệt hại kinh tế bởi thua lỗ, phá sản, giảm khả năng thu hút đầu tư, giảm sản lượng sáng tạo; bất lợi cho ngành quảng cáo, tiếp thị… Hậu quả về kinh tế của tội xâm phạm SHTT không chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận và danh tiếng của doanh nghiệp mà còn tác động gián tiếp làm mất doanh thu trong các lĩnh vực thuế quan đối với hàng hóa dịch vụ của quốc gia và một môi trường kinh tế cạnh tranh lành mạnh. [140, tr.795 – 796]
*Các dấu hiệu bên ngoài của việc thực hiện tội phạm
Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan đã được trình bày ở các phần trên, thuộc mặt khách quan của tội phạm còn có những nội dung biểu hiện khác. Đó là công cụ, phương tiện phạm tội; phương pháp, thủ đoạn phạm tội; địa điểm, thời gian và hoàn cảnh phạm tội. Những đặc điểm này không phải là những đặc trưng cơ bản để nhận diện về các tội xâm phạm SHTT. Tuy nhiên, sự thay đổi của bối cảnh quốc gia, thế giới trong những thời kỳ khác nhau cũng dẫn đến những đặc trưng về công cụ, phương pháp, thủ đoạn phạm tội khác nhau. Các công cụ, thủ đoạn phạm tội có thể nói rằng ngày một phát triển nhanh chóng, tinh vi và lan rộng
hơn. Sử dụng các công cụ trực tuyến, các máy móc công nghệ cao và xuyên quốc gia là những đặc trưng phổ biến của các tội xâm phạm SHTT ngày nay.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Nghiên Cứu Vấn Đề Hoàn Thiện Và Bảo Đảm Áp Dụng Đúng Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Về Các Tội Xâm Phạm Sở Hữu Trí Tuệ
- Khái Niệm, Đặc Điểm Của Các Tội Xâm Phạm Sở Hữu Trí Tuệ
- Đặc Điểm Của Các Tội Xâm Phạm Sở Hữu Trí Tuệ
- Yêu Cầu Thể Chế Hóa Chủ Trương, Đường Lối Của Đảng, Chính Sách Pháp Luật Của Nhà Nước
- Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Về Các Tội Xâm Phạm Sở Hữu Trí Tuệ
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tiền Từ Bốn Trăm Triệu Đồng Đến Một Tỷ Đồng Hoặc Phạt Tù Từ Sáu Tháng Đến Ba
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
2.2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm có thể hiểu theo cách đơn giản nhất là chủ thể của hành vi phạm tội, cũng chính là chủ thể của hành vi khách quan đã phân tích ở trên. Xuất phát từ sự đa dạng của định nghĩa tội phạm trong khoa học luật hình sự cũng như đặc trưng pháp luật của mỗi quốc gia mà các chủ thể của hành vi khách quan của tội phạm có thể là cá nhân hoặc bao gồm cả tổ chức (ví dụ pháp nhân).
Đối với chủ thể là cá nhân, điều kiện đặt ra đòi hỏi người thực hiện hành vi phải có năng lực TNHS. Ở Việt Nam, một người có năng lực TNHS được xác định gián tiếp thông qua độ tuổi chịu TNHS với điều kiện không thuộc tình trạng không có năng lực TNHS (xem quy định tại Điều 12 và Điều 21 BLHS năm 2015).
Đối với các quốc gia quy định chủ thể còn có thể bao gồm tổ chức, nhiều yếu tố của tội phạm được xác định thông qua hành vi của cá nhân cụ thể, do đó, xuất hiện quan điểm coi hành vi của cá nhân chính là hành vi của tổ chức; đồng thời, hành vi của cá nhân đó phải có mối liên hệ đặc biệt với tổ chức, do vậy, tổ chức phải chịu TNHS về hành vi phạm tội này. Mối liên hệ đó có thể phản ánh qua đặc điểm chẳng hạn: “nhân danh tổ chức”, “vì lợi ích của tổ chức”, “có lỗi từ phía tổ chức đối với việc để tội phạm xảy ra” (xem quy định Điều 74 BLHS năm 2015).
2.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. [100, tr.159]
Lỗi của người phạm tội được hiểu về mặt hình thức: là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. [100, tr.163]
Lỗi của người phạm tội là một trong những yếu tố đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; trong đó, các loại lỗi cố ý được đánh giá là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội nghiêm trọng hơn so với lỗi vô ý [34, tr.123]. Tính nghiêm trọng của lỗi cố ý trong các tội xâm phạm SHTT thể hiện ở chỗ chủ thể đã lựa chọn, quyết định và thực hiện hành vi xâm phạm trong khi nhận thức được đầy đủ tác động khách quan của nó với quan hệ SHTT. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi xâm phạm lợi ích hợp pháp (vật chất, tinh thần) của chủ thể quyền, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước nhưng vì những
động cơ và mục đích khác nhau mà vẫn thực hiện hành vi đó. Phần lớn các quan điểm lập pháp và khoa học ở Việt Nam qua các thời kỳ đều xác định các tội xâm phạm SHTT có dấu hiệu lỗi cố ý.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý [100, tr.180]. Thông thường động cơ phạm tội của những người phạm các tội này là động cơ vụ lợi. Tuy nhiên, khi truy cứu TNHS đối với những người phạm các tội xâm phạm SHTT, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội.
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý (trực tiếp) [100, tr.182]. Mục đích phạm tội của những người phạm tội xâm phạm SHTT thông thường là hướng đến đạt được lợi thế thương mại một cách bất hợp pháp hoặc đạt được lợi nhuận bất chính. Mặc dù vậy, dấu hiệu mục đích này không phải là dấu hiệu bắt buộc cho mọi trường hợp cấu thành tội phạm, ví dụ: một trong những trường hợp cá nhân không được phép của chủ quyền tác giả mà sao chép tác phẩm đang được bảo hộ tại Việt Nam của họ, dù không thu lời bất chính hoặc xâm phạm trên quy mô thương mại vẫn có thể cấu thành tội xâm phạm quyền tác giả nếu gây thiệt hại chủ thể quyền tác giả ở mức độ nhất định.
2.3. Cơ sở của việc quy định các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trong pháp luật hình sự Việt Nam
Việc quy định các tội xâm phạm SHTT trong pháp luật hình sự Việt Nam dựa trên những cơ sở triết học, chính trị, kinh tế - xã hội, lý luận và thực tiễn, cụ thể như sau:
2.3.1. Vai trò của sở hữu trí tuệ đối với đời sống kinh tế - xã hội
Các hành vi xâm phạm SHTT nói chung không chỉ gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho chủ thể sáng tạo mà còn có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế xã hội. Điều này xuất phát từ vai trò của SHTT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
SHTT nói riêng và tài sản trí tuệ nói chung là một bộ phận cấu thành trực tiếp và quyết định chất lượng của lực lượng sản xuất, từ đó, góp phần quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội và sự phát triển mọi mặt của đất nước. Vì vậy, chính sách bảo hộ và bảo vệ quyền SHTT là một trong những nền tảng của chính sách kinh tế hiện đại ở cấp độ quốc gia. Hệ thống bảo hộ và bảo vệ
quyền SHTT là động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo – đổi mới và phổ biến sản phẩm sáng tạo, làm giàu tài sản trí tuệ - một nguồn tài nguyên tạo nên nội lực quốc gia phục vụ trực tiếp tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Việc bảo hộ quyền SHTT và bảo vệ quyền SHTT khỏi các hành vi xâm hại có hiệu quả là một nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển giao công nghệ cũng như thu hút đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước vào một số lĩnh vực nhất định của nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là bởi, các nhà đầu tư luôn cân nhắc và chỉ an tâm đầu tư nếu sản phẩm sáng tạo của họ vẫn được bảo vệ khi chuyển giao hoặc đầu tư.
Hệ thống pháp luật về SHTT (trong đó có pháp luật hình sự) bảo vệ các thành quả sáng tạo; chống sao chép, chộp giật, lợi dụng uy tín của người khác, góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cũng như đem lại giá trị gia tăng cho sản phẩm, qua đó, hỗ trợ đắc lực cho thu hút đầu tư và phát triển thị trường. Điều này thấy rõ nhất ở đối tượng SHTT như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Sản phẩm có nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi hoặc mang chỉ dẫn địa lý đã được chứng nhận thường có giá trị cao hơn, được người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn nhiều hơn. Việc xây dựng danh tiếng cho hàng hóa được chào bán có mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý sẽ khiến chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm đó cố gắng duy trì và nâng cao chất lượng của hàng hóa hoặc dịch vụ. Bảo hộ, bảo vệ một cách có hiệu quả nhãn hiệu, nhất là trong bối cảnh quốc tế hóa sẽ góp phần khuyến khích các nhà sản xuất yên tâm sản xuất sản phẩm chất lượng cao cho người tiêu dùng.
Một hệ thống pháp luật bảo hộ và bảo vệ tốt quyền SHTT còn góp phần thúc đẩy nhiều tác phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật được tạo ra và phổ biến. Quyền sở hữu đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của chủ sở hữu quyền và người đầu tư cho hoạt động sáng tạo là một động lực khuyến khích việc sáng tạo trí tuệ. Quyền này là cơ sở pháp lý cho việc tạo lập các thỏa thuận sản xuất, phân phối; nhờ đó lại có thể thu hút nguồn vốn đầu tư cần thiết cho hoạt động sản xuất các tác phẩm. [8]
Không những vậy, giá trị của các tài sản trí tuệ nói chung mang đến cho xã hội những bước tiến mới cho sự phát triển của y tế, giáo dục, xây dựng, văn hóa, môi trường. Trong thế giới hiện đại, sự tiến bộ khoa học – công nghệ với những thành tựu mới nâng tầm nhận thức cũng như đời sống con người trên hầu hết mọi lĩnh vực khi cho ra đời những công cụ, phương tiện mới để con người tiếp cận, thực
hiện dễ dàng hơn các hoạt động thỏa mãn nhu cầu, chẳng hạn những sáng chế mới đưa con người thành công hơn trong việc chống lại bệnh tật, làm sạch môi trường, cải tiến xây dựng…
Bởi SHTT có tầm quan trọng lớn như vậy nên những hành vi xâm hại đến SHTT có khả năng gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội ở nhiều phương diện. Nó ảnh hưởng đến cá nhân, cộng đồng và tác động tiêu cực đến sự phát triển lâu bền của quốc gia. Hậu quả để lại là sự giảm thiểu dần các sáng tạo khoa học “tự thân”, nghèo nàn về nghệ thuật, công cụ lao động kém cải tiến, hàng hóa sản phẩm với số lượng và chất lượng kém cải tiến… nếu không có cơ chế thúc đẩy và bảo vệ được quyền SHTT. Bởi vậy, các hành vi xâm phạm SHTT cần phải được quy định là tội phạm để có những biện pháp hạn chế và loại bỏ ra khỏi xã hội.
2.3.2. Sự thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Không thể phủ nhận mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và những tài sản trí tuệ do họ tạo nên mà nội dung cốt lõi là những quyền năng của chủ thể với tài sản đó. Luận giải bản chất của quyền SHTT, có một số quan điểm tiêu biểu:
Một là, quan điểm về quyền tự nhiên của Jonh Locke trong công trình Khảo luận về chính quyền năm 1689 (The two treatieses of Government). Theo đó, con người chỉ có quyền sở hữu đối với các thành quả lao động của mình khi cải thiện hoặc biến đối các nguồn lực tự nhiên thành thành quả lao động, tức không có quyền sở hữu trong trạng thái tự nhiên. Quyền sở hữu của một người được mở rộng ra với thành quả sáng tạo của người đó và một người có thể bán tài sản mà mình có được. Quyền sở hữu các thành quả sáng tạo trí tuệ cần được dành cho người tạo ra chúng để tránh các hành vi trộm cắp thành quả của những nỗ lực và cảm hứng của người tạo ra chúng. Quan điểm này cũng phù hợp với cách tiếp cận hiện đại khi cho rằng
quyền SHTT cũng như quyền sở hữu tài sản khác, cho phép người sáng tạo hoặc chủ sở hữu được hưởng lợi ích từ công việc hoặc hoạt động đầu tư của mình.6
Hai là, quan điểm quyền SHTT thuộc về công chúng cho rằng việc dành các quyền sở hữu tư nhân đối với các sáng tạo trí tuệ là không hợp lý. Thông tin thuộc về công chúng vì tiếp cận tự do đối với thông tin là trọng tâm của việc gắn kết xã hội và quá tình học tập. Quan điểm này thể hiện trong các hệ thống xã hội vốn
6 Những quyền này được nêu tại Điều 27 Tuyên bố chung về quyền con người của Liên hợp quốc, nêu rõ quyền được hưởng lợi ích từ việc bảo hộ các quyền lợi vật chất và tinh thần là kết quả của việc tạo ra các sản phẩm khoa học, văn học và nghệ thuật (WIPO 2004b).
không công nhận các tài sản trí tuệ. Nhiệm vụ tạo ra trí thức thuộc về nhà nước, sản phẩm sáng được cung cấp rộng rãi cho người sử dụng tiềm năng. Lịch sử đã cho thấy các hệ thống SHTT quốc gia dựa trên quan điểm này không thực sự phù hợp với thực tiễn và thể hiện nhiều điểm bất cập. [47]
Ba là, quan điểm của thuyết vị lợi cho rằng quyền SHTT là phương tiện giúp cân bằng giữa một mặt nhu cầu là sáng chế và sáng tạo, mặt khác là nhu cầu phổ biến và tiếp cận thông tin. Quyền SHTT không phải để khai thác độc quyền SHTT mà là quyền thu được lợi nhuận từ SHTT và không giống như các quyền con người vốn có, việc thiết kế quyền SHTT cần phải được lý giải dựa trên các hệ quả đối với xã hội. [47, tr.17 – 18] Quan điểm này được phản ánh qua quá trình thiết kế hệ thống SHTT hiện đại tại nhiều quốc gia.
Nhìn chung, các quan điểm còn tồn tại, phù hợp với thực tế hiện nay cho thấy khía cạnh quyền nhân thân “bất khả xâm phạm” của chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ do mình sáng tạo ra có thể được thừa nhận hoặc không. Song tất cả đều thừa nhận tương đối hoặc tuyệt đối quyền được tôn trọng “mối quan hệ liên kết giữa chủ sở hữu quyền với tài sản trí tuệ của mình” và quyền khai thác kinh tế từ các tài sản đó.
Từ những cơ sở lý luận trên cho thấy, việc thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền SHTT của chủ thể quyền là phù hợp với bản chất của quyền SHTT. Tuy vậy, quyền SHTT chỉ thực sự trở thành quyền và được bảo vệ khi có sự thừa nhận một cách chính thống nhất bằng các quy định của pháp luật. Hiện nay, trong Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Đạo luật cơ bản và có giá trị pháp lý cao nhất có quy định: ―Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ‖ (Điều 62). Đây là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật của các ngành luật khác nhau có điều chỉnh những nội dung liên quan đến SHTT.
Với tinh thần Điều 62 Hiến pháp năm 2013, việc quy định các tội xâm phạm SHTT trong pháp luật hình sự là một trong những biểu hiện của sự chính thức hóa đòi hỏi về việc bảo vệ quyền SHTT. Theo đó, các hành vi xâm phạm quyền SHTT nhất định cần bị xử lý, trừng phạt bằng biện pháp nghiêm khắc.
2.3.3. Yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm
Hiện nay ở nước ta, mặc dù xã hội ngày một phát triển nhưng điều kiện kinh tế của đa số dân chúng chưa được gọi là cao. Nhu cầu sử dụng hàng hóa, dịch vụ đúng nguồn gốc chưa hẳn quan trọng hơn giá cả của hàng hóa, dịch vụ đó. Điều này dẫn đến hiện tượng sử dụng, tiêu thụ hàng hóa xâm phạm SHTT có giá thấp. Tâm lý không ít người tiêu dùng cho rằng hành vi như vậy là bình thường. Mặt khác, việc sao chép, sản xuất, buôn bán, nhập khẩu, phân phối… hàng hóa xâm phạm SHTT cũng mang lại rất nhiều lợi nhuận, cơ hội việc làm không ít so với những doanh nghiệp chân chính. Từ đó, các hành vi xâm phạm được tiến hành với quy mô lớn hơn, lôi kéo nhiều người thực hiện hơn; thậm chí chuyển sang môi trường mới với phương thức tinh vi hơn như lợi dụng các nền tảng trực tuyến như các mạng xã hội, website thương mại điện tử, black web, deep web… để tiến hành. Vì vậy, việc lên án và không chấp nhận sử dụng hàng hóa xâm phạm quyền SHTT bằng việc quy định chế tài xử phạt những hành vi xâm phạm SHTT là cần thiết.
Tùy theo tính chất, mức độ, hành vi xâm phạm SHTT mà pháp luật quy định những biện pháp xử lý dân sự, hành chính hoặc hình sự khác nhau.
Các biện pháp dân sự tập trung giải quyết các tranh chấp, xâm phạm SHTT, có hoạt động tranh tụng tố tụng dân sự và có cơ chế bồi thường thiệt hại. Về lý thuyết, SHTT là một loại quan hệ dân sự, bởi vậy, việc áp dụng biện pháp dân sự giải quyết các tranh chấp, xâm phạm SHTT là một trong những lựa chọn chủ yếu. Tuy nhiên, tính chất cưỡng chế của các biện pháp dân sự là không cao, việc đảm bảo áp dụng các phán quyết của cơ quan có thẩm quyền phụ thuộc nhiều vào ý thức chấp hành của các chủ thể. [8]
Các biện pháp hành chính được quy định và áp dụng xử lý đối với hành vi xâm phạm SHTT có tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng không đáng kể. Biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm gây ra được tiến hành với thủ tục nhanh chóng hơn nhưng không có khâu tranh tụng và không giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại. Các chế tài hành chính có tính cưỡng chế Nhà nước nhưng chỉ phù hợp với những vi phạm nhỏ nhặt. [8]
Với sự tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, những thiệt hại cho chủ sở hữu quyền, các hành vi xâm phạm SHTT không chỉ gói gọn lại trong những vi phạm nhỏ nhặt mà còn có những trường hợp hành vi xâm phạm nghiêm trọng hơn rất nhiều. Vì vậy, các biện pháp xử lý hình sự đối với các hành vi xâm phạm SHTT cần