Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Về Các Tội Xâm Phạm Sở Hữu Trí Tuệ

Thứ năm, những vấn đề khác: có thể được đề cập đến như ý thức pháp luật trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa các tội xâm phạm SHTT.

Việc nâng cao ý thức pháp luật trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa các tội xâm phạm SHTT đòi hỏi người dân nói chung, trước hết, cần nhận thức được: tầm quan trọng của SHTT đối với sự phát triển của mọi mặt đời sống xã hội, quyền SHTT được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ; hành vi xâm phạm quyền SHTT là hành vi bị pháp luật cấm, nếu vi phạm ở mức độ nhất định có thể phải chịu TNHS.

Tiếp đó, các chủ thể khác nhau trong xã hội (như cơ quan lập pháp, cơ quan tiến hành tố tụng; người tiêu dùng; chủ thể quyền SHTT…) sẽ có vai trò, nhiệm vụ khác nhau trong hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, để nâng cao ý thức pháp luật, những nội dung, phương thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật đối với từng chủ thể vừa cần đúng trọng tâm vừa phải phù hợp với từng đặc điểm riêng của các nhóm đối tượng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Lý luận về các tội xâm phạm SHTT là một vấn đề khoa học pháp lý phức tạp có tính liên ngành, đa ngành. Để làm rõ lý luận về các tội xâm phạm SHTT, không chỉ cần nghiên cứu lý luận về tội phạm mà còn phải nghiên cứu những vấn đề có liên quan về SHTT. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những quan điểm, học thuyết, đường lối, chính sách để hình thành, xây dựng và phát triển quy định pháp luật hình sự cũng như áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT. Đây sẽ là cơ sở để phân tích, đánh giá và hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm SHTT cũng như đảm bảo hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT. Kết quả nghiên cứu của chương 2 luận án được khái quát cơ bản như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu khái niệm các tội xâm phạm SHTT cho thấy sự phong phú, nhiều chiều cạnh của các quan điểm khoa học, pháp định về bản chất, đặc điểm của các tội xâm phạm SHTT. Nghiên cứu đã khái quát định nghĩa về nhóm tội này như sau: ―Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ là những hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, xâm phạm đến quan hệ sở hữu trí tuệ, do người có năng lực trách nhiệm hình sự (hoặc pháp nhân thương mại) thực hiện một cách có lỗi (cố ý), trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt‖. Từ định nghĩa chung này, có thể xác định để từ đó phân tích, làm rõ các dấu hiệu cơ bản nhất của tội phạm; giúp phân biệt với các vi phạm pháp luật khác về SHTT. Định nghĩa chung sẽ là cơ sở thống nhất cho xây dựng các quy định về các tội xâm phạm SHTT trong pháp luật hình sự.

Thứ hai, xét về mặt cấu trúc, các tội xâm phạm SHTT được hợp thành bởi các yếu tố khác nhau đó là khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Ngoài những điểm chung của bốn yếu tố mà mọi tội phạm đều có, các tội xâm phạm SHTT có đặc trưng riêng: về khách thể của tội phạm là quan hệ SHTT; về mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan của các tội phạm này bộc lộ tính nguy hiểm cho xã hội qua việc xâm hại đến quan hệ SHTT, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho chủ thể quyền SHTT, thông qua đó có thể gây thiệt hại cho nền kinh tế; về chủ thể của tội phạm, hành vi khách quan được thực hiện bởi con người nhất định; và về mặt chủ quan của tội phạm, hành vi khách quan phải được thực hiện một cách có lỗi (cố ý).

Thứ ba, cơ sở của việc quy định các tội xâm phạm SHTT trong pháp luật hình sự Việt Nam được được hình thành dựa trên: vai trò của SHTT đối với đời

sống kinh tế - xã hội; sự thừa nhận, tôn trọng và yêu cầu bảo vệ quyền SHTT; yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm; yêu cầu thế chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và yêu cầu hội nhập quốc tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

Thứ tư, nghiên cứu pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT không thể tách rời chính sách pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT bởi chính sách pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho pháp luật hình sự. Nội dung của chính sách pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT tập trung vào các vấn đề: những luận điểm chung và nguyên tắc của luật hình sự trong đấu tranh chống và phòng ngừa các tội xâm phạm SHTT; các tiêu chí tội phạm hóa hành vi xâm phạm SHTT và chế tài đối với hành vi đó; định hướng hoạt động của các cơ quan xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT cùng những vấn đề khác.

Chương 3

Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo pháp luật hình sự Việt Nam - 10

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ


3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ

Pháp luật Việt Nam đã có những biến đổi không ngừng theo thời gian và có được những thành tựu nhất định. Qua các thời kỳ lịch sử, mặc dù ở mỗi thời kỳ pháp luật có nội dung, đối tượng, phạm vi và phương pháp điều chỉnh khác nhau nhưng đã phản ánh được tính kế thừa, tiến bộ của phần lớn pháp luật giai đoạn sau so với giai đoạn trước.

Lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm SHTT nhìn chung có thể chia thành các giai đoạn cơ bản là: Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi BLHS đầu tiên năm 1985 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành; giai đoạn BLHS năm 1985 được ban hành cho đến trước khi BLHS năm 1999 được ban hành; giai đoạn từ khi BLHS năm 1999 được ban hành đến trước khi BLHS năm 2015 được ban hành và giai đoạn từ khi BLHS năm 2015 được ban hành đến nay.

3.1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

Sự thành công của Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã mở ra thời kỳ phát triển lịch sử mới cho dân tộc Việt Nam. Nước việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa ra đời, phải đối phó với cả thù trong lẫn giặc ngoài. Một số văn bản pháp lý hình sự quy định về tội phạm và hình phạt cũng đã được ban hành nhưng tập trung giải quyết những nhiệm vụ cách mạng lúc bấy giờ, do đó, chưa xuất hiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT.

Sau chiến thắng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương, nước Việt Nam bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, bước vào công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn và vững chắc cho miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng cũng tiếp tục được sửa đổi, bổ sung đáp ứng tình hình mới. Đặc biệt trong số các quy định về nhóm các tội xâm phạm chính sách quản lý thị trường, đã xuất hiện quy định về tội vi phạm thể lệ dùng nhãn hiệu thương phẩm, cụ thể trong Nghị định số 175 –TTg ngày 3/4/1958 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thể lệ dùng nhãn hiệu thương phẩm, Điều 12 có nêu rõ: “Những người vi phạm Điều 2, 3, 4, 5, 8, và 11 của Nghị định này, hoặc giả mạo nhãn hiệu thương phẩm của người khác đã đăng ký, tàng trữ, lưu hành thương phẩm mang nhãn hiệu giả mạo sẽ bị Ủy ban hành chính tỉnh hoặc thành phố cảnh cáo, thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép đăng ký kinh doanh công thương nghiệp và giấy đăng ký nhãn hiệu, trường hợp phạm pháp nặng sẽ bị truy tố trước Tòa án‖... Mặc dù còn đơn giản và manh mún, tuy nhiên, quy định này cho thấy, đã bắt đầu có những hành vi xâm phạm SHTT được hình sự hóa. Tuy nhiên, cần nhận định rằng quy định trên chưa cho thấy rõ bản chất bảo vệ quan hệ SHTT mà tập trung vào vấn đề bảo đảm trật tự quản lý thị trường.

Sự kiện đại thắng mùa xuân 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam, non sông thu về một mối. Đất nước ta bước sang một thời kỳ cách mạng mới, gắn liền xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Một trong những phương hướng cho cách mạng Việt Nam giai đoạn này đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã vạch đó là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng là cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng tư tưởng – văn hóa, trong đó, cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt. Với tinh thần đó, Nhà nước ta đã có những quan tâm đặc biệt tới sự phát triển của khoa học – kỹ thuật. Bởi vậy, các văn bản pháp luật quy định về bảo hộ SHTT trong giai đoạn này lần lượt được ban hành như Nghị định số 31/CP của Chính phủ ngày 23/01/1981 về Điều lệ sáng kiến cải tiến kỹ thuật – hợp lý hóa sản xuất và sáng chế để bảo hộ sáng chế, Nghị định số 197/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 14/12/1982 về Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa… Tuy nhiên, ở góc độ pháp luật hình sự, giai đoạn này chưa có quy định rõ ràng, độc lập về các tội xâm phạm SHTT nhưng một số quy định tội phạm có liên quan với hành vi xâm phạm SHTT đã được ban hành như quy định tại Điều

5 Pháp lệnh số 7 – LCT/HĐNN7 ngày 30/6/1982 của Hội đồng Nhà nước trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép về Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả, hướng tới ngăn chặn các hành vi vi phạm chính sách quản lý thị trường, qua đó đẩy mạnh sản xuất, ổn định vật giá và bảo đảm đời sống nhân dân, vấn đề bảo vệ quan hệ SHTT bằng biện pháp hình sự vẫn còn rất mờ nhạt trong giai đoạn này.

3.1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999

Cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, hệ thống pháp luật việt Nam nhìn chung đã có một bước tiến mới trong việc pháp điển hóa một cách toàn diện các quy phạm pháp luật trong nhiều lĩnh vực bằng các Bộ luật, Luật, Pháp lệnh… Liên quan đến bảo vệ quyền SHTT bằng biện pháp hình sự có thể kể đến sự ra đời của BLHS năm 1985 - BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

BLHS 1985 ra đời đánh dấu cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp, đóng vai trò là công cụ pháp lý hữu hiệu và sắc bén góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì trật tự pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như các tội xâm phạm SHTT nói riêng.

Ngay từ lần pháp điển hóa đầu tiên này, hành vi xâm phạm quyền SHTT đã được quy định là tội phạm, cụ thể Điều 126 quy định về Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế, phát minh như sau: ―Người nào chiếm đoạt hoặc có hành vi khác xâm phạm quyền tác giả đối với các tác phẩm khoa học, văn hoá, nghệ thuật hoặc đối với các sáng kiến cải tiến kỹ thuật và hợp lý hoá sản xuất, sáng chế, phát minh, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền đến một trăm nghìn đồng (100.000 đồng), cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm.‖ Quy định thể hiện rõ quan điểm trong chính sách pháp luật hình sự của nhà nước về bảo vệ chủ sở hữu quyền tác giả, quyền sáng chế, phát minh; tạo ra môi trường lành mạnh, thuận lợi để phát triển sáng tạo của con người trong giai đoạn mới của đất nước. Tuy nhiên, tính nghiêm khắc thể hiện qua loại và mức chế tài còn thấp (mức cao nhất là tù có thời hạn đến một năm).

Bên cạnh đó, BLHS năm 1985 còn quy định về Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả tại Điều 1677. Sở dĩ, tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả được đề cập đến trong phạm vi nghiên cứu về các tội xâm phạm SHTT là bởi pháp luật hình sự giai đoạn này chưa có sự tách bạch giữa hành vi xâm phạm SHCN và tội phạm về hàng giả. Khái niệm “hàng giả”8 được quy định trong Điều 167 BLHS được giải thích trong Nghị định số 140 – HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả. Theo đó, hàng giả được hiểu bao gồm: hàng giả nhãn sản phẩm, hàng giả nhãn hiệu, hàng giả về tiêu chuẩn/chất lượng/giá trị sử dụng.9 Với quy định này, hành vi xâm phạm đến quyền SHCN dưới dạng làm ra, buôn bán các hàng giả về nhãn hiệu, có thể bị xử lý theo Điều 167 BLHS năm 1985. TNHS được quy định đối với người phạm tội theo Điều 167 nói chung có mức cao nhất là tử hình (đối với những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng), cho thấy chính sách pháp luật hình sự rất cứng rắn với đường lối xử lý nghiêm trị.

Theo quy định này, hành vi xâm phạm đến quyền SHCN dưới dạng làm ra, buôn bán các hàng giả về nhãn hiệu có thể bị xử lý mức cao nhất là tử hình. Mặc dù về hình thức, việc quy định hình phạt nghiêm khắc là cần thiết nhưng chính sự không tách bạch tội danh giữa tội xâm phạm SHCN và tội phạm hàng giả khác dẫn tình trạng những hành vi xâm phạm có tính chất nguy hiểm khác biệt nhau nhưng


7 Điều 167 BLHS 1985 quy định:

―1- Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:

a) Hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh;

b) Có tổ chức;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc danh nghĩa Nhà nước, tổ chức xã hội;

d) Hàng giả có số lượng lớn; thu lợi bất chính lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm.

3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.‖

8 Theo đó, hàng giả là những sản phẩm, hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường; hoặc

những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó (Điều 3 Nghị định số 140)

9 Điều 4 Nghị định 140/HĐBT ngày 25/4/1991 liệt kê các loại hàng giả: ―1) Sản phẩm có nhãn giả mạo; 2) Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hàng hóa đã được đăng ký, bảo hộ; 3) Sản phẩm, hàng hóa mang nhãn không đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng; 4) Sản phẩm hàng hóa ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam khi chưa được cấp giấy

chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam; 5) Sản phẩm, hàng hóa đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ quan Tiêu chuẩn đo lượng chất lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép; 6) Sản phẩm, hàng hóa có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất, tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó‖.

lại quy định chung mức xử lý. Đây cũng là một vấn đề đặt ra với việc cụ thể hóa nguyên tắc phân hóa TNHS.

3.1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

Đây là giai đoạn phát triển nhanh chóng của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, việc hội nhập quốc tế được mở rộng hơn. Đặc biệt với sự ra đời của WTO (1995), hệ thống pháp luật Việt Nam trong đó có BLHS năm 1985 – sau 15 năm ban hành đã có quá trình thực thi và bộc lộ những bất cập so với tình hình hiện tại.

Sự ra đời của các văn bản pháp luật chuyên ngành SHTT thời kỳ những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX (và sau khi BLHS năm 1985 được ban hành) đã khẳng định rõ hai nhánh cơ bản của quyền SHTT là quyền tác giả và quyền SHCN [96, tr.35]. Điều này đòi hỏi, phải có sự thay đổi tương ứng trong pháp luật hình sự ở giai đoạn mới, cụ thể là: BLHS năm 1985 không có quy định tội danh độc lập đối với hành vi xâm phạm quyền SHCN và BLHS năm 1999 đã khắc phục được hạn chế này. Không chỉ vậy, sự phân tách này còn thể hiện đường lối phân hóa TNHS đối với các tội xâm phạm SHTT một cách rõ ràng hơn so với giai đoạn trước (khi hành vi xâm phạm SHCN còn được quy định cùng các tôi phạm về hàng giả).

Mặt khác, trong thực thi pháp luật chuyên ngành đến điều chỉnh quan hệ SHTT, việc tiến hành các thủ tục cấp phát văn bản bảo hộ quyền SHCN xuất hiện những hành vi thực tế gây thiệt hại đáng kể cho xã hội. Vì vậy, BLHS năm 1999 đã bổ sung quy định mới về Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN.

Thời kỳ này, các quy định của BLHS năm 1985 được xây dựng trên cơ sở nền kinh tế bao cấp ít nhiều không còn phù hợp nữa. Thêm vào đó mặt trái của sự phát triển kéo theo sự gia tăng của các loại hình tội phạm mới và biến đổi nguy hiểm cho xã hội theo hướng đa dạng và nguy hại hơn, đòi hỏi pháp luật hình sự cũng phải thay đổi để phù hợp.

BLHS năm 1999 đã có nhiều sự thay đổi tập trung vào điều chỉnh các dấu hiệu pháp lý và mức độ xử lý tội phạm. Các tội trong lĩnh vực SHTT của BLHS năm 1999

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 11/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí