Yêu Cầu Thể Chế Hóa Chủ Trương, Đường Lối Của Đảng, Chính Sách Pháp Luật Của Nhà Nước

thiết được đặt ra. Không ngoài mục tiêu chung như các biện pháp dân sự, hành chính đã kể trên, các biện pháp hình sự bảo vệ SHTT một cách mạnh mẽ thông qua việc quy định và áp dụng những chế tài có tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất đối với các hành vi xâm phạm SHTT ở mức độ đáng kể (vượt qua ngưỡng vi phạm hành chính). Điều này là hoàn toàn phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của một số lượng nhất định các hành vi xâm phạm.

Nhìn chung, tổng thể các biện pháp dân sự, hành chính, hình sự tạo nên một hệ thống các biện pháp giải quyết, xử lý các tranh chấp, vi phạm SHTT ở mọi cấp độ; trong đó, pháp luật hình sự đảm nhiệm vai trò giải quyết, xử lý các hành vi xâm phạm SHTT ở mức độ nghiêm trọng nhất, thông qua đó còn hướng tới, giảm thiểu, loại bỏ những hành vi tương tự xảy ra trong tương lai.

2.3.4. Yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước

Pháp luật và Nhà nước là hai thành tố của thượng tầng chính trị-pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời; đều là những phạm trù mang tính xã hội và giai cấp, là sản phẩm của sự phát triển xã hội đến một trình độ nhất định. Trong mối quan hệ Nhà nước và pháp luật, Nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật; pháp luật là công cụ quan trọng, không thể thiếu, giúp Nhà nước quản lý xã hội. Ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước, nói cách khác, pháp luật hình thành bằng con đường Nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Ở Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4 Hiến pháp 2013). Bởi vậy, đường lối của Đảng sẽ trở thành ý chí của Nhà nước và là kim chỉ nam cho các chính sách của Nhà nước, được cụ thể hóa trong quy định của pháp luật. Các quy định của pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng cần thể chế hóa được đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền SHTT đã được thể hiện trong những văn kiện chính trị quan trọng. Chủ trương “thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ” được khẳng định tại Văn kiện đại hội VIII; tiếp đó được xác định thành một nhiệm vụ quan trọng về “hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ” tại Văn kiện Đại hội lần thứ IX và Kết luận của hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa X. Đến Đại hội lần thứ IX và Hôi nghị Trung ương lần thứ 5 ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, vấn đề “hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo,

bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao, quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả” được nhắc lại với tư cách một trong những nôi dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam xây dựng 10 năm một lần, gần nhất là Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 đã tái khẳng định quan điểm phải “phát triển trình độ khoa học và công nghệ, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ” hướng tới mục tiêu tổng quát đưa nước ta “cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Trong số những biện pháp đảm bảo thực hiện thắng lợi chiến lược được nêu lên đã khẳng định “đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp, đổi mới tư duy và quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật‖. Trên cơ sở Chiến lược này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chiến lược phát triển cụ thể hơn trong nhiều lĩnh vực và một trong những giải pháp thực hiện các chiến lược được nêu nhấn mạnh “đẩy mạnh thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ. Xây dựng Chương trình quốc gia về sở hữu trí tuệ. Nghiên cứu bổ sung các định chế liên quan đến sở hữu trí tuệ và xây dựng hệ thống các tòa án hành chính và dân sự về sở hữu trí tuệ”.

Về đường lối chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước trong hoàn thiện pháp luật, định hướng hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT nói riêng đã được xác định rõ trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 giai đoạn vừa qua. Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 14/4/2016 cũng nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tập trung nghiên cứu dự báo, luật hóa kịp thời các hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện. Xây dựng, ban hành kịp thời văn bản hướng dẫn thi hành sau khi các luật, bộ luật có hiệu lực‖ với các đề án cụ thể có liên quan đến tội phạm về SHTT như Đề án 8: Phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả tại các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm do Bộ Công Thương chủ trì và Đề án 14: Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì. Các đề án này góp

phần cụ thể hóa Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó có tăng cường hiệu quả phòng ngừa vi phạm pháp luật và các tội xâm phạm SHTT (về cả mảng SHCN và quyền tác giả, quyền liên quan).

Với những định hướng rõ ràng về đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, việc kiến tạo và phát triển công cụ để bảo vệ quyền SHTT bao gồm trong đó cả những biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là cần thiết và phù hợp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

2.3.5. Yêu cầu hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh tiến tới hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng như tham gia ngày càng nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương. Chính vì thế, khi xây dựng các quy định trong pháp luật quốc gia, việc tuân thủ các nội dung, nguyên tắc trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia là tất yếu. Trong số đó, không ít các ĐƯQT được ký kết có các nội dung về bảo hộ, bảo vệ quyền SHTT ở các cấp độ hợp tác khác nhau, điển hình như hiệp định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT); các hiệp định thương mại quốc tế song phương, đa phương như CPTPP; EVFTA… Nhận thức được vai trò của quyền SHTT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, cũng như sự phát triển kinh tế toàn cầu, các vấn đề hợp tác quốc tế ngày càng chú trọng hơn đến lĩnh vực SHTT và thể hiện sự quan tâm đó vào những quy định mang tính cụ thể, chặt chẽ hơn đối với các yêu cầu bảo hộ, bảo vệ quyền SHTT. Do đó, để hiện thực hóa nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế, cũng như để thực sự hòa nhập vào sân chơi toàn cầu, Việt Nam cần phải chủ động rà soát và sửa đổi, bổ sung các nội dung đã cam kết vào pháp luật quốc gia. Quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT cũng không nằm ngoài yêu cầu này.

Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo pháp luật hình sự Việt Nam - 9

2.4. Chính sách pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ

Chính sách pháp luật hình sự nhìn chung là chính sách pháp luật về tội phạm và hình phạt. Cụ thể hơn, chính sách pháp luật hình sự là hoạt động có tính khoa học, nhất quán và hệ thống của cơ quan xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật nhằm soạn thảo và áp dụng các luận điểm chung của pháp luật hình sự, xác định các nhóm hành vi phạm tội và hệ thống hình phạt, xây dựng các chế tài trong các cấu thành tội phạm cụ thể và lựa chọn các biện pháp tác động công bằng và hợp lý đối với những người phạm tội. [118, tr.410]

Gắn với các tội xâm phạm SHTT, chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm này có thể hiểu là những hoạt động có tính khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan xây dựng và áp dụng pháp luật nhằm xác định: những luận điểm chung và nguyên tắc của luật hình sự trong đấu tranh chống và phòng ngừa các tội xâm phạm SHTT; các tiêu chí tội phạm hóa hành vi xâm phạm SHTT và chế tài đối với hành vi đó; định hướng hoạt động của các cơ quan xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT cùng một số vấn đề khác.

Trong mối quan hệ với pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT, chính sách pháp luật hình sự đối với các tội này phải có trước và đóng vai trò định hướng cho pháp luật hình sự. Các nội dung cơ bản mà chính sách pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT định hướng, là nền tảng cho pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT đó là:

Thứ nhất, các luận điểm chung và các nguyên tắc trong của luật hình sự trong đấu tranh chống và phòng ngừa các tội xâm phạm SHTT.

Luật hình sự có vai trò là công cụ đắc lực trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung, tội xâm phạm SHTT nói riêng với mục đích trọng yếu là bảo vệ quyền SHTT, thúc đẩy sự phá triển của nền kinh tế tri thức. Để phát huy được tính hữu hiệu đó của Luật hình sự đòi hỏi phải thiết lập và hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về tội xâm phạm SHTT (cụ thể là các quy định về tội phạm và hình phạt); xây dựng được cơ chế thực hiện có hiệu quả các quy định pháp luật về các tội xâm phạm SHTT; nâng cao được hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT; nâng cao ý thực pháp luật cũng như khích lệ được sự hưởng ứng và tham gia tích cực của người dân vào việc chống, phòng ngừa tội phạm.

Thực tiễn hoạch định chính sách pháp luật hình sự qua nhiều giai đoạn đã chứng minh một cách xác đáng, khách quan và bảo đảm tính thuyết phục rằng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại được thể hiện khá rõ trong pháp luật hình sự ngày nay. Các tư tưởng ấy thể hiện ở những mức độ khác nhau thông qua những nguyên tắc của luật hình sự, trước hết là những nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật [112, tr.416] như nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; tiếp đó là những nguyên tắc đặc thù của luật hình sự như nguyên tắc hành vi, nguyên tắc lỗi, nguyên tắc phân hóa TNHS.

Mặc dù chưa được ghi nhận chính thống nhưng qua đặc điểm của SHTT, các nguyên tắc của Luật hình sự hiện nay trong hoạt động chống và phòng ngừa các tội xâm phạm SHTT còn thể hiện:

- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền SHTT theo chuẩn mực quốc gia phù hợp với các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam đã cam kết. Quyền SHTT được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ ở các quốc gia cũng như trong cộng đồng pháp lý quốc tế nói chung. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế sâu rộng, với sự tiệm cận ngày càng gần hơn đến các chuẩn mực pháp lý quốc tế thì việc chấp thuận và hài hòa hóa nội luật với những chuẩn mực chung về quy định và thực thi pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT là tất yếu.

- Nguyên tắc bảo vệ quyền SHTT trên cơ sở cân bằng lợi ích chủ thể quyền SHTT và lợi ích cộng đồng. Trong SHTT, tài sản trí tuệ là kết quả của hoạt động sáng tạo. Và đặc điểm của tài sản trí tuệ là đặc tính sáng tạo và đổi mới, bởi vậy việc tìm tòi, khám phá, làm chủ các tông tin và tri thức liên quan của con người là hoạt động cần thiết để tiếp tục tạo ra tài sản trí tuệ mới. Do đó, việc độc quyền chiếm giữ tài sản trí tuệ sẽ là một trong những trở ngại cho nhu cầu phát triển xã hội cũng như hoạt động sáng tạo, đặc biệt hơn là trong những bối cảnh an ninh thế giới, sự sống còn của cộng đồng nhân loại bị đe dọa nếu không được phổ cập các kết quả sáng tạo trí tuệ để giải quyết. Vì vậy, phạm vi quyền SHTT không nên mang tính chất độc quyền tuyệt đối; cũng từ logic đó, phạm vi xử lý hình sự các hành vi xâm phạm SHTT cần cân nhắc phù hợp với phạm vi quyền SHTT được bảo vệ (sau khi đã cân bằng các lợi ích). Cũng cần phải làm rõ thêm rằng, quan điểm trên đây là quan điểm đang được thể hiện trong chính sách pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm SHTT. Điều này không đồng nghĩa với chính sách pháp luật hình sự của các quốc gia khác hay chính sách pháp luật hình sự Việt Nam trong tương lại cũng sẽ vẫn phát triển theo nguyên tắc này. Một số quốc gia rất phát triển có những chính sách đặc trưng với nội dung bảo vệ tối đa quyền cá nhân của chủ thể sáng tạo đối với tài sản trí tuệ, vì thế, tính cân bằng lợi ích nói trên không thể hiện nhiều như các quốc gia khác (như các quốc gia đang hay chưa phát triển).

Thứ hai, các tiêu chí tội phạm hóa hành vi xâm phạm SHTT.

Tội phạm hóa được hiểu là quá trình quy định một hành vi bị coi là tội phạm mới vào pháp luật hình sự, đồng thời ghi nhận TNHS với các chủ thể thực hiện hành vi này [13, tr.41]. Tội phạm mới cần được hiểu là hành vi mà trước đó (cụ thể

là pháp luật hình sự hiện hành) không coi là tội phạm vì chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khác hoặc vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức… hoặc thậm chí trước đó chưa từng xuất hiện loại hành vi này trong thực tiễn. Việc quy định một tội phạm mới không phải là tội phạm hóa nếu hành vi đó được tách thành tội danh mới từ một tội danh đang tồn tại trong luật hình sự hiện hành. Ngược lại với tội phạm hóa, quá trình phi tội phạm hóa là quá trình đưa ra khỏi quy định của pháp luật hình sự hiện hành một hành vi bị coi là tội phạm, cũng như hủy bỏ TNHS đối với tội phạm đó.

Dù tội phạm hóa hay phi tội phạm hóa các hành vi xâm phạm SHTT, hoạt động này cần thực hiện dựa trên những tiêu chí cơ bản, đó là:

- Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Các hành vi xâm phạm SHTT đều có khả năng chứa đựng tính nguy hiểm cho xã hội ở các mức độ khác nhau. Nhưng chỉ hành vi nào nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể và cần phải xử lý bằng các chế tài hình sự mới đạt được mục đích răn đe, giáo dục, cải tạo thì mới bị coi là tội phạm. Ngược lại, những hành vi tuy được quy định là tội phạm trong pháp luật hình sự hiện hành nhưng không còn đảm bảo tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội và việc xử lý bằng các chế tài hình sự là quá nặng hay không cần thiết thì cần được phi tội phạm hóa.

- Tình hình tồn tại của hành vi cần tội phạm hóa hay phi tội phạm hóa. Tiêu chí này đòi hỏi sự đánh giá tính phổ biến và mức độ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội. Hành vi càng phổ biến và mức độ ảnh hưởng càng tiêu cực đến xã hội, càng cần thiết hạn chế, loại bỏ khỏi xã hội nên khả năng tội phạm hóa càng cao và ngược lại.

Tính phổ biến và mức độ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội của các hành vi xâm phạm SHTT lại chịu tác động rất lớn bởi sự vận động và phát triển của các yếu tố kinh tế - xã hội. Điều này cũng có nghĩa hoạt động tội phạm hóa hay phi tội phạm hóa trong mỗi giai đoạn có tính lịch sử; có giai đoạn sẽ tập trung vào tội phạm hóa và cũng có những giai đoạn cần phi tội phạm hóa.

- Yếu tố đạo đức và ý thức pháp luật của người dân trong vấn đề bảo vệ quyền SHTT. Một hành vi bị xã hội lên án mạnh mẽ vì thiếu đạo đức là hành vi có khả năng tội phạm hóa cao hơn những hành vi không hay ít có sự lên án này. Việc bị quy định là tội phạm đã thể hiện sự lên án chính thức của Nhà nước đối với hành vi xâm phạm, phù hợp với nguyện vọng của xã hội.

Mặt khác, sự phát triển khoa học – kỹ thuật ngày càng đưa đến nhiều thành tựu, sáng tạo mới cũng như pháp luật điều chỉnh những điểm mới đó. Vì vậy, người dân phải có nhận thức bắt kịp và thái độ đúng đắn về SHTT, quyền SHTT và pháp luật về SHTT. Chỉ khi người dân đạt được một trình độ nhận thức tương xứng nhưng vẫn có lựa chọn chống đối xã hội thì việc tội phạm hóa mới thực sự phù hợp.

- Khả năng chứng minh tội phạm. Các hành vi xâm phạm SHTT là những hành vi có nhiều yếu tố chuyên ngành phải nhận thức và xác định được. Điều này không phải người tiến hành tố tụng nào cũng có đầy đủ kiến thức chuyên môn về pháp luật SHTT để thực hiện. Ngay trong trường hợp có được những kiến thức chuyên ngành nhưng vi phạm quá tinh vi, rất khó hoặc không thể phát hiện được vì lý do khách quan thì cần phải cân nhắc có nên tội phạm hóa hay không. Vì vậy, khi tội phạm hóa những hành vi này cần phải cân nhắc cách quy định làm sao rõ ràng và khả thi nhất.

Thứ ba, xác định chế tài hình sự quy định cho các tội xâm phạm SHTT (hình sự hóa). Nội dung cơ bản nhất của hoạt động này là ghi nhận các hình phạt đối với hành vi xâm phạm SHTT vừa được tội phạm hóa; và rộng hơn còn bao gồm việc quy định các loại/mức hình phạt nặng hơn đối với tội phạm đã được quy định trước đó, bổ sung thêm các tình tiết tăng nặng TNHS, bổ sung thêm chủ thể phải chịu TNHS. Đối lập với hình sự hóa là phi hình sự hóa – quá trình loại bỏ các hình phạt ra khỏi một tội đang được pháp luật hình sự quy định hoặc quy định một loại/mức hình phạt nhẹ hơn; bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS, loại bỏ bớt chủ thể phải chịu TNHS.

Việc đặt ra hay loại bỏ các chế tài phải đảm bảo nguyên tắc phân hóa TNHS hay chế tài phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; phải phù hợp với các đặc điểm nhân thân của chủ thể, những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng TNHS; đồng thời, bảo đảm tính công bằng và nhân đạo.

Đối với các tội xâm phạm SHTT, một trong những dấu hiệu thông thường là mục đích kiếm lời, động cơ vụ lợi. Chính vì vậy, muốn đấu tranh chống và phòng ngừa các tội phạm này cần phải lựa chọn loại, mức hình phạt có thể hạn chế hoặc triệt tiêu động cơ, mục đích nói trên.

Hình sự hóa hay phi hình sự hóa thường gắn liền với tội phạm hóa hay phi tội phạm hóa, vì vậy, các hoạt động này cũng có tính lịch sử, có thể thay đổi theo chuyển biến của tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở mỗi thời kỳ khác nhau.

Thứ tư, phương hướng hoạt động của các cơ quan xây dựng và cơ quan áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT.

Hoạt động xây dựng pháp luật hình sự là giai đoạn kiến tạo nên quy phạm pháp luật hình sự về các tội phạm. Việc tiến hành hoạt động này đòi hỏi các nhà lập pháp phải hiểu được tầm quan trọng của việc bảo vệ quan hệ SHTT, yêu cầu chống và phòng ngừa các tội phạm này; nghiên cứu quy luật phát sinh, tồn tại và diễn biến của các tội xâm phạm SHTT trong bối cảnh hiện tại cũng như dự kiến tương lai; nắm được tinh thần của các nguyên tắc của luật hình sự, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để thế chế hóa vào quy định của pháp luật hình sự. Các quy phạm khi đã hình thành cũng có tính lịch sử của nó. Vận động và biến đổi theo thời gian, hoàn cảnh là quy luật tất yếu của mọi quan hệ xã hội. Do đó, hoạt động xây dựng pháp luật cũng không phải là hoạt động chỉ xảy ra một lần và bất biến; nó cần bám sát vào thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện cho giai đoạn mới.

Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự là một hình thức của thực hiện pháp luật hình sự, là quá trình cá biệt hóa quy phạm PLHS vào trường hợp cụ thể đối với chủ thể phạm tội, mang tính tổ chức – quyền lực nhà nước và được thực hiện theo một trình tự đặc biệt do pháp luật TTHS quy định [107, tr.33]. Nội dung cơ bản của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT là định tội danh và quyết định hình phạt. Định tội danh, quyết định hình phạt không tạo nên quy định về tội phạm, hình phạt mới mà là áp dụng quy định đã có về các tội xâm phạm SHTT để định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm SHTT trên thực tế có trở thành tội phạm không và lượng hóa TNHS đối với người đã thực hiện tội phạm đó.

Đối với người áp dụng pháp luật, việc thực hiện các hoạt động của họ cần phải được tiến hành đúng pháp luật. Để tiến hành đúng, điều kiện tiên quyết là sự đáp ứng đầy đủ, có chất lượng về năng lực chuyên môn; tiếp đó là đáp ứng được những yêu cầu về phẩm chất chính trị, ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm.

Việc tiến hành các hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật có liên quan đến nhiều các cơ quan, ngành khác nhau; do đó, tính phối hợp, đồng bộ trong hoạt động giữa các chủ thể cần được đảm bảo. Để làm được điều này, các chủ thể phải định hướng, lên kế hoạch một cách thống nhất, khoa học và cụ thể đối với từng loại hoạt động.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/02/2023