biện đối với các đề xuất, kiến nghị sau giám sát, phản biện của các tổ chức chính trị
- xã hội. Trong đó, cần quy định rò trách nhiệm, thời hạn gửi văn bản đề nghị giám sát, phản biện xã hội và văn bản giải trình, tiếp thu hoặc phản hồi của các cơ quan nhà nước. Có chế tài xử lí đủ mạnh đối với các cơ quan chậm hoặc không phản hồi, giải trình đối với các đề xuất, kiến nghị sau giám sát, phản biện của các tổ chức chính trị - xã hội.
- Quy định phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội là một thủ tục pháp lý bắt buộc trong việc trình dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật trước khi được Quốc hội thông qua. Thực hiện trước hết đối với các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, sau đó từng bước mở rộng đối với các văn bản pháp luật khác phù hợp với yêu cầu thực tiễn và năng lực phản biện xã hội của Mặt trận và các tổ chức thành viên.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu và ban hành Luật về Hội. Quyền lập hội là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Trước xu thế phát triển mạnh của xã hội dân sự như hiện nay, cần tiến hành rà soát, bổ sung, sửa đổi những quy định hiện hành để xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật thống nhất về hội nhằm củng cố cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội. Nội dung của Luật về Hội, bên cạnh những quy định về quản lý nhà nước đối với hội nhằm đưa công tác quản lý hội đi vào nề nếp, cần có thêm những quy định cụ thể để các tổ chức này tham gia giám sát, phản biện xã hội đối với chính quyền, phát huy vai trò của mình thúc đẩy xu thế dân chủ hóa đời sống xã hội.
Ba là, xây dựng Luật dân chủ ở cơ sở bằng cách rà soát, tổng hợp và thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay. Nội dung của Luật dân chủ ở cơ sở cần quy định rò ràng, cụ thể về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế để các tổ chức chính trị - xã hội, Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng thực hiện quyền kiểm soát đối với tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Cần mở rộng các nội dung trong Luật dân chủ ở cơ sở, không chỉ giới hạn ở việc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà cần có cơ chế để nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của địa
phương, được thụ hưởng các thành quả từ sự phát triển của địa phương do các quyết định của mình mang lại. Đây là điều kiện quan trọng để các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia ngày càng nhiều và thực chất vào các công việc của địa phương, kiểm soát hoạt động các cơ quan nhà nước và các quan chức ở địa phương.
Bốn là, cần tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND theo hướng nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên và giám sát bầu cử. Hoạt động hiệp thương cần được tinh gọn về mặt thủ tục nhưng phải đi vào thực chất, đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân để lựa chọn và giới thiệu được những đại biểu ưu tú, thật sự xứng đáng tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Cụ thể hóa các quy định để tạo điều kiện cho MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên phát huy vai trò trong việc giám sát bầu cử nhằm đảm bảo quá trình bầu cử diễn ra trung thực, khách quan, tuân thủ quy định của pháp luật.
Năm là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền bãi miễn đại biểu của nhân dân. Để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân cần tiếp tục cụ thể hóa các quy định về quyền bãi miễn của cử tri đối với các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND. Hiện nay vấn đề bãi miễn đại biểu dân cử mới chỉ được quy định một cách khái quát ở Hiến pháp 2013, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu HĐND 2015, Luật tổ chức Quốc hội 2014, Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015. Để đảm bảo quyền bãi miễn của nhân dân được thực thi trên thực tế, cần cụ thể hóa, hoàn thiện các quy định về quyền bãi miễn đại biểu dân cử của cử tri, trong đó quy định rò ràng về cơ chế, quy trình cử tri bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND. Cần có những quy định cụ thể để phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện quyền đề nghị bãi miễn đại biểu không còn xứng đáng, có cơ chế để nhân dân thông qua các tổ chức của mình thể hiện ý chí, kiểm soát và bãi miễn các đại biểu khi cần thiết.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng Cao Hiệu Quả Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Phải Gắn Liền Với Đổi Mới, Kiện Toàn Hệ Thống Chính Trị
- Nâng Cao Hiệu Quả Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Phải Đáp Ứng Xu Thế Dân Chủ Hóa Đời Sống Xã Hội
- Đổi Mới Tổ Chức, Hoạt Động Và Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Đáp Ứng Yêu Cầu Của Hoạt Động Kiểm
- Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 22
- Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 23
- Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 24
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Sáu là, hoàn thiện và triển khai thực hiện trên thực tế luật trưng cầu ý dân. Trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp điển hình, thể hiện rò nhất quyền quyết định cuối cùng thuộc về nhân dân đối với các vấn đề hệ trọng của quốc gia. Ở
nước ta hiện nay, trưng cầu ý dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 và được cụ thể hóa trong Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, tuy nhiên, trên thực tế do các điều kiện chủ quan và khách quan, chúng ta chưa tổ chức thực hiện được các cuộc trưng cầu ý dân. Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện quyền làm chủ và quyền kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, cần tiếp tục hoàn thiện và triển khai luật trưng cầu dân ý trong thực tế cuộc sống. Cần bổ sung, cụ thể hóa các quy định để MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của và nhân dân thực hiện quyền đề xuất những nội dung, vấn đề cần trưng cầu ý dân, giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân nhằm đảm bảo tính khách quan và hiệu quả.
Bảy là, hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo của công dân. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền và trách nhiệm của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong tiếp nhận, xử lý, gửi đơn khiếu nại, tố cáo của công dân đến các cơ quan có thẩm quyền; tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo với cơ quan chức năng; giám sát quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo tính khách quan và bảo vệ lợi ích của công dân. Cần quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc đôn đốc, giám sát quá trình thực hiện các quyết định sau giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan chức năng. Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về bí mật thông tin, bảo vệ nhân chứng, bảo vệ người khiếu nại, tố cáo nhằm khuyến khích sự tham gia của người dân vào kiểm soát để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các sai phạm trong tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Tám là, nghiên cứu xây dựng và ban hành các quy định của pháp luật về vận động hành lang. Cần thừa nhận tính hợp pháp của hoạt động vận động hành lang và những người hành nghề vận động hành lang. Các quy định của pháp luật về vận động hành lang cần quy định rò những lĩnh vực, nội dung được phép vận động hành lang; cụ thể hóa các quy định về nguyên tắc, nội dung, hình thức, chủ thể của vận động hành lang; trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan trong việc thực hiện hoạt động vận động hành lang. Chú trọng xây dựng cơ chế để các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và nhân dân tham gia thực chất vào các khâu,
các giai đoạn của quá trình hoạch định chính sách. Có cơ chế công khai, minh bạch và giám sát quá trình vận động hành lang nhằm đảm bảo tính khách quan, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực gây ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước và nhân dân.
Chín là, sửa đổi Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng minh bạch, khách quan và mở rộng sự tham gia từ phía xã hội. Luật cần thay đổi theo hướng chuyển một số văn bản pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cho MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, các nhóm chuyên gia gồm các Luật sư, Luật gia, các chuyên gia cao cấp có đủ trình độ chuyên môn trực thuộc UB Pháp luật của Quốc hội đảm nhiệm việc chủ trì dự thảo, kiểm tra, đánh giá các dự thảo và tiếp thu các ý kiến góp ý, phản biện trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Quy định hoạt động giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động tổ chức lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của nhân dân là một khâu bắt buộc trong quá trình xây dựng, ban hành các chính sách, pháp luật.
Mười là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, công khai minh bạch hoạt động của bộ máy nhà nước để nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội. Những quy định này cần được xây dựng theo hướng ngày càng mở rộng, tạo môi trường dân chủ và pháp quyền, đồng thời, tiếp cận các chuẩn mực chung của thế giới nhằm tạo điều kiện cho nhân dân và các tổ chức đại diện của mình khắc phục được sự “bất bình đẳng” trong việc sở hữu thông tin trong quan hệ với nhà nước, tăng cường sự tham gia và chất lượng hoạt động kiểm soát, nâng cao tính giải trình, chịu trách nhiệm của các cơ quan công quyền.
4.2.4. Đa dạng hóa các hình thức kiểm soát quyền lực, mở rộng sự tham gia của xã hội đối với hoạt động kiểm soát quyền lực của các tổ chức chính trị - xã hội
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước hiện có của các tổ chức chính trị - xã hội. Theo quy định của pháp luật, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện nhiều hình thức kiểm soát quyền lực nhà
nước trên tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp đối với các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, do những hạn chế về mặt nguồn lực và nhiều nguyên nhân khách quan nên việc kiểm soát còn mang nặng tính hình thức, dàn trải, hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước chưa cao.
Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội cần được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tránh tổ chức tràn lan, dàn trải nhằm nâng cao hiệu quả trong điều kiện năng lực kiểm soát còn nhiều hạn chế. Trước mắt, cần lựa chọn và chú trọng tập trung triển khai các hình thức kiểm soát quyền lực phù hợp với năng lực thực tế của các tổ chức chính trị - xã hội như: tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND; tổ chức các hoạt động lấy ý kiến đóng góp của nhân dân đối với các dự án luật; phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân, tổ chức việc tiếp công dân, tham gia công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc xá; giám sát và phản biện xã hội ở một số nội dung, lĩnh vực phù hợp với điều kiện, năng lực của các tổ chức chính trị - xã hội.
Trên cơ sở nâng cao năng lực kiểm soát, kiện toàn, đổi mới tổ chức và hoạt động, từng bước mở rộng việc thực hiện các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước khác như: sáng kiến pháp luật; nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đánh của nhân dân; tổ chức hội nghị đối thoại, phản biện xã hội,… Việc mở rộng thực hiện các hình thức kiểm soát này cần phù hợp với năng lực thực tế, đầu tư thời gian, công sức nhằm đạt hiệu quả cao, tránh chạy theo số lượng, hoạt động hình thức để hoàn thành chỉ tiêu.
Thứ hai, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm thế giới để đa dạng hóa các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Sự vận động, phát triển của đời sống chính trị đòi hỏi các tổ chức chính trị - xã hội không ngừng hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động để đáp ứng yêu cầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay, việc nghiên cứu lý luận, tham khảo học hỏi các mô hình kiểm soát của các nước trên thế giới để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước đang là khâu yếu kém của các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, trong thời gian tới cần tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, làm rò những yêu cầu thực tiễn đang đặt ra hiện nay đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội để có định hướng phù hợp nhằm từng bước nâng cao năng lực hoạt động, vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị.
Bên cạnh đó, cần tăng cường nghiên cứu, học hỏi các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội, các nhóm lợi ích ở các nước trên thế giới. Lựa chọn một số phương thức phù hợp với điều kiện của nước ta và năng lực của các tổ chức chính trị - xã hội như: vận động hành lang, gây áp lực, tư vấn, phản biện chính sách của các chuyên gia và tổ chức nghiên cứu chính sách,… Cần có kế hoạch chuẩn bị các điều kiện cần thiết về nhân lực, vật lực để triển khai thực hiện. Trước mắt, chú trọng nâng cao năng lực và phát huy vai trò triển khai thực hiện cho một số tổ chức trong liên minh chính trị do Mặt trận đứng đầu như: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Từng bước nâng cao năng lực của các cá nhân tiêu biểu, các chuyên gia, các cơ quan tư vấn của các tổ chức chính trị - xã hội để đáp ứng nhu cầu đa dạng hóa các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, phát huy dân chủ trong điều kiện mới.
Thứ ba, phối hợp với các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước khác để nâng cao hiệu quả, hiệu lực kiểm soát. Đặc trưng hoạt động kiểm soát quyền lực của các tổ chức chính trị - xã hội là không mang tính quyền lực nhà nước, chỉ dừng lại ở mức “theo dòi, phát hiện, kiến nghị”, tính hiệu lực, hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực phụ thuộc nhiều vào mức độ tiếp thu của các cơ quan được kiểm soát. Trong điều kiện chưa có cơ chế pháp lý về việc trách nhiệm tiếp thu, phản hồi của các cơ quan được kiểm soát, các tổ chức chính trị - xã hội cần chú trọng phối hợp với các hình thức kiểm soát quyền lực khác, đặc biệt là hoạt động kiểm soát của các cơ quan Đảng và Nhà nước nhằm tạo ra cơ chế pháp lý để phát huy hiệu quả thực tế thông qua các quyết định của các cơ quan công quyền.
Trước hết, cần xây dựng các chương trình, kế hoạch phối hợp kiểm soát với các cơ quan Đảng từ Trung ương đến địa phương. Với tư cách là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, Đảng có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực đối với các bộ phận của hệ thống chính trị. Mục đích của sự kết hợp kiểm soát quyền lực của các tổ chức chính trị - xã hội với các tổ chức Đảng là nhằm phát huy vai trò của Đảng với tư cách là thành viên của MTTQ Việt Nam, đồng thời làm tăng tính hiệu lực pháp lý của các phát hiện, kiến nghị, đề xuất.
Xây dựng các kế hoạch phối hợp kiểm soát với Quốc hội, Thanh tra nhà nước và các cơ quan tư pháp. Kiểm soát của các cơ quan này là kiểm soát từ bên trong bộ máy nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ thiếu khách quan. Sự kết hợp giữa các tổ chức chính trị - xã hội với các cơ quan quyền lực nhà nước sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện cho nhau, vừa đảm bảo tính trung thực, khách quan cho hoạt động kiểm soát của các cơ quan quyền lực, vừa mang lại hiệu lực pháp lý, hiệu quả cho hoạt động kiểm soát của các tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, các tổ chức chính trị - xã hội cũng phải không ngừng nâng cao năng lực, chủ động thực hiện nhiệm vụ giám sát, phản biện một cách khách quan, trung thực, hạn chế khả năng bị các cơ quan quyền lực nhà nước chi phối trong quá trình kết hợp hoạt động.
Ngài ra, các tổ chức chính trị - xã hội cần xây dựng kế hoạch, chương trình phối hợp kiểm soát với các cơ quan báo chí truyền thông. Các cơ quan này với ưu thế về mặt cung cấp, truyền tải thông tin rộng rãi, kịp thời đến với các tầng lớp nhân dân sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội có thể thông qua các phương tiện báo chí, truyền thông công bố kết quả kiểm soát quyền lực nhà nước; chuyển tải các đề xuất, kiến nghị đến các cơ quan quyền lực nhà nước; đồng thời tạo dựng sức ép từ dư luận xã hội để buộc các cơ quan được kiểm soát nhanh chóng có ý kiến phản hồi, tiếp thu hoặc thu hút sự chú ý để các cơ quan chức năng sớm có động thái điều tra, xử lý các sai phạm.
Thứ tư, xây dựng cơ chế phối hợp, thống nhất hành động giữa các tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Chú trọng phát huy vai trò chủ trì của MTTQ trong việc
xây dựng kế hoạch, lựa chọn nội dung, phạm vi, hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước; đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức thành viên tham gia, phát huy thế mạnh của tổ chức mình, tạo sức mạnh tổng hợp để nâng cao hiệu lực của các kiến nghị, đề xuất. Trong những trường hợp cần thiết, các tổ chức chính trị - xã hội thành viên cần chủ động tổ chức các kế hoạch giám sát, phản biện phù hợp với năng lực, đặc điểm của tổ chức mình, huy động sự hỗ trợ từ các thành viên còn lại.
Thứ năm, đa dạng hóa hình thức tập hợp lực lượng, xây dựng cơ chế phát huy vai trò của các tổ chức thành viên trong liên minh chính trị do MTTQ đứng đầu tham gia hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiện nay, MTTQ Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, thu hút sự tham gia của 46 tổ chức thành viên hoạt động trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội, cần xây dựng cơ chế thu hút sự tham gia rộng rãi và phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức này. Trong đó, chú ý khai thác, phát huy vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp (như Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hội Luật gia, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) là nơi tập hợp nhiều chuyên gia trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội để phản biện cho các chính sách của nhà nước.
Thứ sáu, phát huy vai trò của các cá nhân tiêu biểu, các chuyên gia, các cơ quan tư vấn và các cộng tác viên trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là MTTQ Việt Nam có nhiều cá nhân tiêu biểu, chuyên gia trên các lĩnh vực tham gia hoạt động, bên cạnh đó còn có các cơ quan tư vấn, các cộng tác viên có khả năng phát huy được vai trò giám sát, phản biện trong nhiều lĩnh vực hoạt động của nhà nước. Vấn đề đặt ra là các tổ chức chính trị - xã hội cần tạo điều kiện phù hợp để các tổ chức và cá nhân nói trên tham gia hoạt động, phát huy được năng lực trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
MTTQ Việt Nam cần đổi mới phương thức tập hợp lực lượng theo hướng phát huy dân chủ và năng lực của các thành viên. Giữ mối liên hệ chặt chẽ với các cá nhân tiêu biểu và các tổ chức thành viên, chủ động giao các nhiệm vụ, kế hoạch giám sát, phản biện xã hội phù hợp với các tổ chức này để triển khai thực hiện.