Các Nhân Tố Tác Động Tới An Toàn Vốn Của Các Nhtm Việt Nam


Như vậy, xử lý nợ xấu bằng cách bán nợ cho VAMC chỉ là biện pháp tình thế, cần có giải pháp hữu hiệu hơn để xử lý tận gốc các khoản nợ xấu và hạn chế các khoản nợ xấu mới phát sinh. Có như vậy, mới hạn chế rủi ro và đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng.

Thứ ba, khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam ở mức thấp so với chuẩn mực quốc tế và các nước trong khu vực ảnh hưởng đến khả năng tăng vốn của ngân hàng

Tổng thu nhập từ hoạt động của các NHTM Việt Nam bao gồm thu nhập lãi, thu nhập hoạt động dịch vụ và thu nhập hoạt động khác. Trong đó thu nhập lãi từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nhập. Tuy nhiên, hoạt động cho vay với mức nợ xấu cao làm tăng chi phí trích lập dự phòng giảm thu lãi của các ngân hàng. Đồng thời chi phí hoạt động ngày càng tăng cao, chiếm trung bình khoảng 55% tổng thu nhập hoạt động. Bên cạnh đó, thu nhập hoạt động dịch vụ thấp, đặc biệt với các ngân hàng có quy mô tài sản nhỏ, thu nhập hoạt động dịch vụ chỉ chiếm khoản 2% trong tổng thu nhập hoạt động của ngân hàng.

Chính vì những lý do đó làm giảm khả năng sinh lời từ tài sản của các NHTM Việt Nam. Đồng thời làm giảm khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới khả năng tăng vốn chủ sở hữu thông qua nguồn lợi nhuận giữ lại của các NHTM Việt Nam (Trần Thọ Đạt và Lê Thanh Tâm, 2016). Trong thời gian tới, nếu các NHTM Việt Nam sử dụng tốt các giải pháp để tăng khả năng sinh lời, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng tăng vốn cũng như tăng tỷ lệ an toàn vốn.

Thứ tư, tỷ lệ đòn bẩy có xu hướng ngày càng tăng cao làm tăng mức độ rủi ro của các NHTM Việt Nam.

Phần phân tích thực trạng về tỷ lệ đòn bẩy của các NHTM Việt Nam cho thấy, tỷ lệ đòn bẩy của các ngân hàng có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Bên cạnh đó việc sử dụng vốn chưa hiệu quả (khả năng sinh lời trên tổng tài sản ở mức thấp), sẽ càng làm tăng mức độ tiềm ẩn rủi ro và đòi hỏ các NHTM Việt Nam có một lượng vốn đủ lớn để bù đắp những tổn thất tiềm năng để không ảnh hưởng đến vác chủ nợ, người gửi tiền.

Thứ năm, việc thực hiện tính CAR theo Basel II của các NHTM Việt Nam còn nhiều trở ngại từ hệ thống cơ sở dữ liệu, hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và nguồn lực tài chính.

Để thực hiện chuẩn mực Basel II, các NHTM cần có cơ sở dữ liệu lịch sử, hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và nguồn lực tài chính. Các NHTM Việt Nam


trong thời gian qua cũng đã từng bước hoàn thiện và chuẩn bị những điều kiện tiền đề đó. Tuy nhiên, theo đánh giá chi phí triển khai Basel II là một khó khăn đối với các NHTM Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện phần lớn các NHTM Việt Nam có quy mô nhỏ. Khi triển khai Basel II, các ngân hàng phải mất chi phí khá lớn để đầu tư hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, thuê tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực… Bên cạnh đó, vấn đề về cơ sở dữ liệu cũng là khó khăn mà các NHTM Việt Nam phải đối mặt. “Bởi dữ liệu lịch sử chưa được chú trọng thu thập và quản trị một cách có hệ thống trong suốt thời gian dài. Trong khi đó, yêu cầu tối thiểu độ dài dữ liệu cho một số mô hình phân tích là 3 năm, 5 năm, 7 năm cho các mô hình nội bộ” (Khuất Duy Tuấn và Bùi Văn Hải, 2017).


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong chương 3, tác giả đã tiến hành phân tích thực trạng về an toàn vốn và các nhân tố tác động tới an toàn vốn của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.

Có thể thấy Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện về mặt luật pháp, quy định về an toàn vốn hướng tới chuẩn mực quốc tế Basel II. CAR của hệ thống qua các năm từ 2008-2017 đều vượt mức quy định tối thiểu 9% nhưng có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Đặc biệt, năm 2016-2017 là năm thí điểm áp dụng tính CAR theo Basel II đối với 10 ngân hàng được chỉ định. CAR của toàn hệ thống năm 2016-2017 mặc dù vẫn cao hơn quy định tối thiểu 9% nhưng đã giảm so với năm 2015. Điều này càng làm tăng áp lực đối với hệ thống ngân hàng khi tiến tới áp dụng tính CAR theo Basel II trên toàn hệ thống.

Trong thời gian tới, khi áp dụng tính CAR theo Basel II trên toàn hệ hệ thống ngân hàng, ngoài những thuận lợi các NHTM Việt Nam cũng phải đối mặt những khó khăn nhất định như: (i) tỷ lệ an toàn vốn không đồng đều giữa các loại hình ngân hàng và ở mức thấp so với các nước trong khu vực, (ii) CAR của các HTNH Việt Nam hiện tại mới chỉ đảm bảo các tiêu chuẩn của Basel I trong khi đó các nước phát triển đã thực hiện Basel III, (iii) CAR của các NHTM Việt Nam có xu hướng giảm đe dọa khả năng an toàn vốn của các ngân hàng.


CHƯƠNG 4

KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI AN TOÀN VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

4.1. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

4.1.1. Mô hình nghiên cứu

Dựa vào tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về nhân tố ảnh hưởng tới an toàn vốn của NHTM và căn cứ vào thực tế của các NHTM tại Việt Nam và để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu, tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu và các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu của luận án.

Trong đó, phần lớn các biến trong mô hình nghiên cứu là kế thừa từ các nghiên cứu trước. Tuy nhiên, trong mô hình nghiên cứu tác giả không đưa biến Tỷ lệ tài sản rủi ro do không thu thập được dữ liệu về tài sản rủi ro của các NHTM tại Việt Nam. Trong giai đoạn nghiên cứu, thì CAR của các NHTM Việt Nam được tính bằng vốn tự có trên tổng tài sản rủi ro.

Trong đó, dữ liệu về Tài sản rủi ro được các NHTM tính toán dựa trên các dữ liệu nội bộ và không công bố công khai. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu vẫn tính CAR theo Basel I, tức là chỉ tập trung vào rủi ro tín dụng của tài sản. Do vậy trong luận án này các nhân tố tác động tới an toàn vốn (đo lường thông qua hệ số CAR) liên quan đến rủi ro tín dụng và được thể thể hiện thông qua các biến: tỷ lệ nợ xấu, mức độ tập trung của hoạt động tín dụng (tỷ trọng cho vay trong tổng tài sản).

Bên cạnh đó, tác giả bổ sung biến mang tính đặc trưng của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu đó là biến Nợ xấu bán cho VAMC. Nợ xấu bán cho VAMC phát sinh từ khi NHNN Việt Nam thực hiện đề án tái cơ cấu các TCTD (Đề án 254). Một trong những mục tiêu của đề án là tăng cường năng lực tài chính, đảm bảo tính an toàn và lành mạnh trong hoạt động của các TCTD. Để đạt được mục tiêu này NHNN đã thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam - VAMC. Mục tiêu của việc thành lập VAMC giúp các NHTM Việt Nam xử lý các khoản nợ xấu, tăng cường khả năng an toàn. Theo quy định, các NHTM Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu vượt ngưỡng an toàn 3% sẽ phải bán nợ xấu cho VAMC.

Khả năng sinh lời của ngân hàng được phản ánh thông qua các chỉ tiêu như: Thu nhập lãi biên (NIM) ; Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Trong đó, theo Casu et al. (2015) ROE là chỉ số quan trọng nhất cho khả năng sinh lời và tiềm năng tăng trưởng của một ngân hàng. Chính vì vậy, trong mô hình nghiên cứu tác giả chỉ sử dụng chỉ tiêu ROE để xem xét tác động của khả năng sinh lời tới CAR của ngân hàng.


Về khả năng thanh khoản, tác giả sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tài sản (LIQ). LIQ là chỉ tiêu đánh giá tổng thể mức độ sẵn sàng cho thanh khoản dựa trên quy mô tài sản và thường được sử dụng trong các nghiên cứu về tác động của khả năng thanh khoản tới CAR.

Đồng thời, trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 2008 – 2017, có sự thay đổi quy định về an toàn vốn, cụ thể từ năm 2015-2017, CAR của các NHTM Việt Nam được tính theo thông tư 36/2014/TT-NHNN. Cách tính CAR theo thông tư 36 có sự một số khác biệt so với cách tính theo các quy định trước. Do đó, tác giả đưa thêm biến giả Áp lực của các quy định để xem xét.

Tóm lại, luận án xem xét tổng hợp tác động của các nhân tố vi mô và vĩ mô nền kinh tế tới an toàn vốn của NHTM Việt Nam theo mô hình như sau:

CARi,t = β0 + β1LARi,t + β2NPLi,t + β3VAMCi,t + β4LLRi,t + β5ROEi,t +

β6LEVi,t + β7LIQi,t + β8SIZEi,t + β9Owneri,t + β10CARi,t -1 + β11GDPt + β12INFt +

β13INTt + β14EXCt + β15ACARt + β16REGt + ԑi,t

Trong đó:

CARi,t là biến phụ thuộc đo lường An toàn vốn của các NHTM Việt Nam.

Xi,t là các biến độc lập – Biến vi mô (cách tính giá trị của các biến như đã trình bày trong chương 2 của luận án).

Xt là các biến độc lập – Biến vĩ mô nền kinh tế (cách tính giá trị của các biến như đã trình bày trong chương 2 của luận án).

Cụ thể các biến độc lập được xem xét trong mô hình như sau:

Các biến vi mô: Cho vay được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ trọng cho vay trên tổng tài sản (LAR); Nợ xấu được đo lường thông qua tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ (NPL); Nợ xấu bán cho VAMC được đo lường thông qua số dư nợ xấu bán cho VAMC (VAMC); Dự phòng rủi ro tín dụng được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (LLR); Khả năng sinh lời được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE); Đòn bẩy được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ đòn bẩy – Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (LEV); Khả năng thanh khoản được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tài sản (LIQ); Quy mô ngân hàng được xác định bằng logarit của tổng tài sản (SIZE); Mức độ sở hữu của chính phủ được xác định là một biến giả (Owner) với NHTM mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối và NHTM 100% vốn đầu tư của Nhà nước (NHTMNN) nhận giá trị 1 còn với các NHTM khác nhận giá trị 0.

Các biến vĩ mô nền kinh tế: Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế được xác định là tỷ lệ tăng (giảm) GDP của năm phân tích so với năm liền trước (GDP); Lạm phát được xác định là chỉ số giá tiêu dùng bình quân (INF); Lãi suất được đo lường thông qua lãi suất cho vay bình quân (INT); Tỷ giá được đo lường thông qua tỷ lệ tăng giảm tỷ giá chính thức bình quân của đồng USD so với VND (EXC); Mức độ an toàn vốn toàn ngành được xác định bằng tỷ lệ an toàn vốn trung bình của HTNH; Áp lực của các quy


định được xác định là biến giả nhận giá trị 1 vào các năm thực hiện tính CAR theo thông tư 36/2014/TT-NHNN (REG) và nhận giá trị là 0 ở các năm khác2.

YYUU TT VVII MMÔÔ

YẾYUẾTUỐTVỐĨ VMĨÔMNÔỀN KINH TẾ


H1

H2

H11

H3

H12

H4

H13

H5

H14

H6

H15

H7

H8

H16

H9

Tỷ lệ an toàn vốn kỳ trước

H10

Cho vay

Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế

Nợ xấu


AN TOÀN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Dự phòng rủi ro tín dụng

Lạm phát

Lãi suất

Nợ xấu bán cho VAMC

Tỷ giá hối đoái

Khả năng sinh lời

Mức độ an toàn vốn toàn ngành

Quy mô ngân hàng

Đòn bẩy

Áp lực của các quy

định

Khả năng thanh khoản

Mức độ sở hữu của chính phủ

Hình 4.1 Các nhân tố tác động tới an toàn vốn của các NHTM Việt Nam



2 Năm 1999, NHNN ban hành văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tỷ lệ an toàn vốn đối với các NHTM tại Việt Nam, tuy nhiên trong thời kỳ đầu áp dụng các quy định về tỷ lệ an toàn còn nhiều hạn chế. Các quy định về tỷ lệ an toàn vốn chưa đảm bảo theo các chuẩn mực quốc tế về vốn, thậm chí còn nhìn nhận sai về vốn tự có của các ngân hàng. Đồng thời việc thực hiện các quy định về tỷ lệ an toàn vốn thời kỳ đầu chưa được chú trọng. Sau một loại các quy định về tỷ lệ an toàn vốn được ban hành cho tới thông tư 36/2014/TT-NHNN, quy định về tỷ lệ an toàn vốn đã đảm bảo được các tiêu chuẩn về vốn theo Basel I. Đồng thời, việc đảm bảo thực hiện các quy định về tỷ lệ an toàn vốn cũng được chú trọng hơn. Chính vì vậy, sự ra đời thông tư 36/2014/TT-NHNN cùng với kỷ luật thị trường được nâng cao tạo áp lực cho các NHTM trong việc đảm bảo an toàn vốn.


Các bước thực hiện như sau:

- Bước 1: Thống kê mô tả các biến, đánh giá hệ số tương quan giữa các biến và lựa chọn biến cho mô hình hồi quy thông qua phần mềm STATA.

- Bước 2: Hồi quy mô hình theo phương pháp ước lượng OLS và xác định khiếm khuyết của mô hình: tự tương quan, phương sai sai số thay đổi, đa cộng tuyến, hiện tượng nội sinh.

- Bước 3: Xác định mô hình phù hợp và phân tích kết quả nghiên cứu.

Trong trường hợp mô hình nghiên cứu tồn tại các khiếm khuyết như đã chỉ ra ở bước 2, đặc biệt là hiện tượng nội sinh thì phương pháp hồi quy thích hợp nhất là GMM. Phương pháp GMM sẽ khắc phục được các khiếm khuyết của mô hình. Để kiểm tra xem mô hình hồi quy đã khắc phục được khiếm khuyết hay chưa. Tác giả tiến hành hồi quy tác động của các biến độc lập tới biến phụ thuộc bằng phương pháp GMM sau đó kiểm tra các chỉ số AR(1), AR(2), Hansen test. Nếu AR(1) > 0.05 mô hình nghiên cứu không có hiện tượng tự tương quan bậc 1; AR(2) > 0.05 mô hình nghiên cứu không có hiện tượng tự tương quan bậc 2; Hansen test > 0.05 mô hình nghiên cứu không có hiện tượng nội sinh.

4.1.2. Các giả thuyết nghiên cứu

Các nghiên cứu trước cho thấy an toàn vốn của ngân hàng chịu tác động chủ yếu bởi các quyết định của các ngân hàng cũng như các quy định về an toàn vốn. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng cho thấy các nhân tố vĩ mô nền kinh tế cũng có những ảnh hưởng nhất định tới an toàn vốn của các ngân hàng. Dựa trên các nghiên cứu trước và thực tế tại Việt Nam, tác giả đưa ra các giả thuyết nghiên cứu như sau:

Bảng 4.1 Các giả thuyết của mô hình nghiên cứu



TT


Nội dung giả thuyết

Kỳ vọng về dấu


Cơ sở trích dẫn

H1

Khoản cho vay có tương quan nghịch với an toàn vốn

của NHTM.

-

Aspal et al (2014); Büyüksalvarci & Abdioğlu (2011); Bokhari & Ali

(2012)

H2

Nợ xấu có tương quan nghịch với an toàn vốn của NHTM.

-

Ahmad et al. (2008); Gropp & Heider (2007); Asarkaya & özcan (2007)

H3

Dự phòng rủi ro tín dụng có

+

Ahmad et al (2008); Büyüksalvarci

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

Các nhân tố tác động tới an toàn vốn của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 13



TT


Nội dung giả thuyết

Kỳ vọng về dấu


Cơ sở trích dẫn


tương quan thuận với an toàn

vốn của NHTM.


& Abdioğlu (2011);

H4

Khả năng sinh lời của ngân hàng có tương quan thuận với an toàn vốn của NHTM.

+

Berger et al. (1995); Wong et al. (2005); Asarkaya & Özcan (2007); Bokhari & Ali (2012);

Büyüksalvarci & Abdioğlu (2011)

H5

Quy mô ngân hàng có tương quan nghịch với an toàn vốn của NHTM.

-

Wong et al. (2005); Alfon et al. (2005); Asarkaya & özcan (2007); Büyüksalvarc & Abdioğlu (2011); Trương Thị Hoài Linh (2016); Lê Thanh Tâm và Nguyễn Diệu Linh

(2017)

H6

Đòn bẩy có tương quan nghịch với an toàn vốn của

NHTM.

-

Ahmad et al. (2008); Büyüksalvarci & Abdioğlu (2011);

Shaddady & Moore (2015)

H7

Khả năng thanh khoản có tương quan thuận với an toàn vốn của NHTM.

+

Berger & Bouwman (2009); Aspal et al (2014); Trương Thị Hoài Linh (2016)

H8

Nợ xấu bán cho VAMC có

tương quan thuận với an toàn vốn của NHTM.

+


H9

Tỷ lệ an toàn vốn kỳ trước có tương quan thuận với an toàn vốn của NHTM

+

Wong et al (2005); Asarkaya & özcan (2007); Dhouibi,R. (2016)

H10

Mức độ sở hữu của chính

phủ có tương quan nghịch với an toàn vốn của NHTM

-

La Porta et al. (2002);

Gerschenkron (1962); Shleifer và Vishny (1998)

H11

Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có tương quan nghịch

với an toàn vốn của NHTM

-

Wong et al (2005); Alfon et al. (2005); Asarkaya & özcan (2007);

Trương Thị Hoài Linh (2016); Lê

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/11/2022