rộng và mức độ cam kết sâu hơn so với các cam kết trong WTO của mỗi nước thành viên. Các gói cam kết sau có mức độ cam kết cao hơn các gói cam kết trước nhằm tiến đến thực hiện các mục tiêu về tự do hóa dịch vụ đặt ra trong AEC Blueprint.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Như vậy, Chương 2 nghiên cứu tổng quan về FDI, ngành dịch vụ, FDI vào các ngành dịch vụ và tác động của hội nhập kinh tế khu vực đến thu hút FDI, bao gồm:
1/ Giới thiệu tổng quan về FDI – khái niệm, đặc điểm và vai trò, các yếu tố tác động đến thu hút FDI nói chung, trong đó tập trung tác động của liên kết kinh tế khu vực đến thu hút FDI. Theo đó, các yếu tố thu hút FDI được chia thành 3 nhóm chính, bao gồm nhóm yếu tố khung chính sách, nhóm yếu tố kinh tế và nhóm yếu tố thể chế - tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh. Trong các yếu tố thu hút FDI, các liên kết kinh tế khu vực được cho là có tác động đến thu hút FDI của một quốc gia nói chung, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các liên kết kinh tế đến các nước là khác nhau.
2/ Giới thiệu tổng quan về dịch vụ - khái niệm, đặc điểm và các yếu tố tác động
– trong đó khẳng định FDI là một yếu tố tác động đến phát triển ngành dịch vụ của một quốc gia. Đây sẽ là tiền đề để phân tích các chính sách thu hút và xây dựng mô hình các yếu tố tác động đến thu hút FDI từ các nước ASEAN vào ngành dịch vụ của Việt Nam ở Chương 4.
3/ Giới thiệu tổng quan về AEC và các hiệp định chính trong AEC. Theo đó, trong khuôn khổ AEC, các cam kết về đầu tư trong các ngành dịch vụ được quy định trong Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) và Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN (AFAS).
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THU HÚT FDI TỪ ASEAN VÀO CÁC NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TRIỂN KHAI CAM KẾT HỘI NHẬP AEC
3.1. Tổng quan về các ngành dịch vụ Việt Nam
Tại Việt Nam, trong một vài thập kỷ trở lại đây, mặc dù đã đã đạt được mức tăng trưởng nhanh song tỷ trọng và vai trò của ngành dịch vụ trong nền kinh tế còn rất khiêm tốn. Trong giai đoạn 1986-1990, Việt Nam chủ yếu đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực. Từ khoảng những năm 1990, giai đoạn sau Đổi mới, khi Việt Nam tập trung hướng tới mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành dịch vụ mới bắt đầu được phát triển. Tuy nhiên, dịch vụ vẫn không được chú trọng như các lĩnh vực công nghiệp và sản xuất hàng hoá. Phải đến những năm 2000, khi Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài và mở cửa thị trường với việc gia nhập WTO và ký kết một loạt FTA trong khu vực, các ngành dịch vụ Việt Nam mới thực sự được chú trọng. Mặc dù tỷ trọng và vai trò trong nền kinh tế còn khiêm tốn, các ngành dịch vụ của Việt Nam ngày càng phát triển, cạnh tranh hơn và có nhiều triển vọng trong tương lai (VCCI, 2019).
3.1.1. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong tổng GDP (1988-2020)
Tỷ trọng của các ngành dịch vụ trong tổng GDP của Việt Nam trong 10 năm trở lại đây – từ 2008 đến 2020 – duy trì tương đối ổn định ở mức khoảng 41%.
100
90
80
70
Đơn vị: %
60
50
40
30
20
10
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
Sơ bộ 2020
0
Nông. lâm nghiệp và thuỷ sản Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm
Biểu đồ 3.1: Tỷ trọng các ngành trong tổng GDP của Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2021)
Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân giải thích cho tốc độ tăng trưởng thấp của ngành dịch vụ là do sự thay đổi trong phương pháp tính tổng GDP. Theo đó,
trước đây GDP chỉ được tính dựa trên 3 khu vực là nông lâm nghiệp – thuỷ sản, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ thì từ năm 2010 trở đi, Tổng cục Thống kê đã tách giá trị của các loại thuế sản phẩm ra khỏi các giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế và trở thành một thành tố riêng trong GDP, do đó làm giảm tỷ trọng của các thành tố đang có trước đó (VCCI, 2019).
Mặc dù đã thay thế công nghiệp và xây dựng, trở thành lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế quốc dân nhưng tỷ trọng dịch vụ trong tổng GDP của Việt Nam vẫn còn tương đối thấp so với các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới. Năm 2020, các ngành dịch vụ đóng góp 41,63% trong tổng GDP, so với 33,72% của các ngành công nghiệp – xây dựng và 14,85% của các ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Trong khi đó, các nước phát triển có tỷ trọng dịch vụ trong GDP rất cao – tỷ trọng trung bình ngành dịch vụ có thể lên tới 70% ở các nước OECD (Xem Biểu đồ 3.2).
80 70,9
54,8 58,3 | 54,5 57 | 54,4 | ||||||||||||||||||
49,3 | ||||||||||||||||||||
41,6 44,4 | YX>/rP Tq>-XzN@wtڠ]vT绐*C*Gb9 Ɂ.,FK{H͠j݆(ϊu% Yͅ?8C嗳.ǻx"9-#*\vÄX 2$ xNF\8U:oݟU|4mNx˩B H͍Fj|\;4`PYC\8djJ9q.Ī mg]ܟl65 qC-.'pH 4E(5$9t3m]$v'Gۇ lz'0FFHWV}m#f5?Y٘Y˺ :7)jfz--'WFeq$GJ!w@`}ZWWm{UP4*())|O_#N=0ުq$|u"qM0 6ъ1~?+t|}]7ME&F@|"wLJcaJ=jLrK\e&Ϙ ֞ ."CT6AXKȻPK$qY%8%{}ji!Yp-&ؗMn4+k]ag%GoBk*gjZ{S9.qEI3v |