Ứng Dụng Nội Dung Khung Ngẫu Nhiên Vào Giải Thích Sự Tác Động Của Các Nhân Tố Đến Ktqtcl Và Sự Tác Động Đến Thành Quả.


chiến lược tấn công sử dụng nhiều hơn và nhận thấy nhu cầu về kế toán tập trung vào đối thủ hơn. Cũng theo Cadez và Guilding (2008), các tổ chức có chiến lược tấn công tìm kiếm tiềm năng cạnh tranh thông qua hàng hóa mới và mở rộng thị trường.Vì vậy, các mặt hàng thay đổi theo thời gian và các đơn vị thường xuyên tìm kiếm thị trường mới.

Khandwalla (1972) cho thấy rằng các công ty tham gia phát triển hàng hóa và phát triển các phân khúc thị trường mới trở lên khác biệt và đòi hỏi phải có các kỹ thuật giám sát phức tạp, ví dụ như cộng cụ lập dự toán cho mục đích thâm nhập thị trường. Quan điểm này được củng cố bởi Tushman và Nadler (1978) các công ty phải đối mặt với sự không chắc chắn cao sẽ dùng công cụ kiểm soát chặt chẽ hơn.

Các nghiên cứu khám phá của Leftesi (2008) cho thấy sự thay đổi của việc áp dụng KTQT theo sự phát triển của nền kinh tế và tùy vào chiến lược kinh doanh của DNSX. Các bài báo kết luận lãnh đạo theo chiến lược tấn công có thể chấp nhận sự đổi mới trong kế toán, vì họ là các tổ chức đổi mới (Gosselin, 1997).

(2) Chiến lược phòng thủ

Miller và Friesen (1982) bình luận rằng đơn vị có chiến lược phòng thủ có khuynh hướng bảo thủ, nên cần có một hệ thống kiểm soát đòi hỏi sự đổi mới. Porter (1980) Các tổ chức có cấu trúc cao (môi trường ổn định và các hoạt động lặp đi lặp lại) thường tập trung vào chi phí, ý kiến này được củng cố bằng các nghiên cứu khác như Langfield- Smith (1997) cho rằng kiểm soát chi phí là ưu tiên trong các công ty áp dụng chiến lược phòng thủ. Leftesi (2008) Trong các đơn vị có chiến lược phòng thủ thường có phạm vi hàng hóa hẹp với khối lượng sản xuất cao và hàng hóa ít có sự đa dạng; các lãnh đạo nhấn mạnh hiệu quả hoạt động hơn là đổi mới.

2.3.2.4 Văn hóa tổ chức

Văn hóa đơn vị được Ravasi và Shultz (2006) khái niệm là một tập hợp các giả định chia sẻ hướng dẫn những gì xảy ra trong tổ chức, bằng cách xác định hành vi phù hợp cho các tình huống khác nhau. Theo Needle (2010), văn hóa đại diện cho các giá


trị tập thể, niềm tin và nguyên tắc của thành viên và là một sản phẩm của các nhân tố như lịch sử, sản phẩm, thị phần, công nghệ, chiến lược, loại nhân viên, phong cách quản trị và văn hóa quốc gia. Theo Nguyễn Mạnh Quân (2012) văn hóa đơn vị là sự tổng hợp mọi cách thức hoạt động cùng với biểu hiện của nó trong một tổ chức, văn hóa được đơn vị tạo ra nhằm xử lý yêu cầu của thị trường và sự cạnh tranh của quá trình tự do hóa thương mại. Do đó, văn hóa ảnh hưởng đến sự tương tác của các thành viên trong đơn vị, với khách hàng và các bên có liên quan, văn hóa được thiết lập tốt trong đơn vị thì các sai phạm sẽ được hạn chế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 307 trang tài liệu này.

Văn hóa đơn vị tác động đến thực hiện KTQT đã được nghiên cứu trong một số đề tài (Erserim, 2012, Trần Ngọc Hùng 2016). Theo Erserim (2012) các loại hình văn hóa ảnh hưởng đến vận dụng KTQT như văn hóa trợ giúp, văn hóa quản lý theo mục tiêu và văn hóa cải tiến. Trần Ngọc Hùng (2016) kết luận trong các đơn vị khi nhân viên nhận được sự hỗ trợ từ lãnh đạo, mọi thành viên trong tổ chức đều đồng lòng hướng về mục tiêu chung, và các bộ phận trong đơn vị có sự chia sẽ với nhau trong suốt quá trình hoạt động, những đặc điểm này là của văn hóa hỗ trợ.

Như vậy, luận án được thực hiện trên cơ sở văn hóa công ty là văn hóa hỗ trợ, tức là một đơn vị có văn hóa càng cao thì việc các thành viên nhận được sự hỗ trợ từ lãnh đạo càng cao, việc thành viên trong tổ chức đồng lòng hướng về mục tiêu chung càng cao, và các bộ phận có sự chia sẻ cao trong quá trình hoạt động.

Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán quản trị chiến lược và sự tác động đến thành quả hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam - 12

2.3.2.5 Trình độ nhân viên KTQT

Nhân tố trình độ của nhân viên KTQT ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL, vì đây là những người trực tiếp thực hiện, tư vấn, tham mưu và cung cấp thông tin theo nhu cầu đặt ra của lãnh đạo. Một số học giả đã khẳng định trình độ của nhân viên KTQT tác động nhiều đến chất lượng thông tin KTQT (Ahmad, 2012). Haldma và Laats (2002) cho rằng rào cản lớn khi sử dụng các kỹ thuật KTQT hiện đại là chưa có đủ kế toán có trình độ. Ismail và King (2007) cho thấy nhân viên KTQT đủ trình độ liên quan đến vận dụng KTQT ở mức độ cao. McChlery và cộng sự (2004) kết luận


rằng sự tham gia của nhân viên KTQT có trình độ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy vận dụng KTQT. Ahmad (2012) nhận xét trình độ của nhân viên KTQT là yếu tố nội sinh tác động đến mức độ thực hiện KTQT. Như vậy,Trình độ nhân viên KTQT cao được hiểu trong luận án này là trình độ đào tạo từ cao đẳng trở lên và các văn bằng kế toán trong nước và quốc tế mà nhân viên KTQT có thể đạt được.

2.4 Các lý thuyết nền liên quan

Các khung lý thuyết nền được luận án sử dụng nhằm để giải thích các biến có liên quan trong mô hình. Từ khi KTQTCL ra đời, có nhiều đề tài trên thế giới, căn cứ khung nền tảng thiết lập các nhân tố tác động đến thực hiện KTQTCL và sự tác động đến hiệu quả. Chenhall (2007), kết luận KTQT là các kỹ thuật hỗ trợ công việc quản lý của lãnh đạo với mục đích tăng cường giá trị đơn vị. Sự phát triển KTQTCL được thúc đẩy bởi nhu cầu thông tin của lãnh đạo trong môi trường tự do hóa thương mại. Quá trình thực hiện KTQTCL bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài đơn vị. Do vậy, đề tài sử dụng các khung lý thuyết như: khung ngẫu nhiên, thể chế và cấp trên để giải thích mối tương tác giữa các yếu tố trong nghiên cứu.

2.4.1 Lý thuyết ngẫu nhiên

2.4.1.1 Nội dung lý thuyết

Lý thuyết ngẫu nhiên được gọi với nhiều tên khác nhau như khung bất định hay dự phòng, khung này được triển khai lần đầu trong nghiên cứu của đơn vị vào thời điểm giữa thập niên 1960. Nhưng đến năm 1970 khung ngẫu nhiên mới bắt đầu phát triển trong sự nỗ lực giải thích những biến của việc vận dụng KTQT đã rõ ràng vào thời điểm đó. Trước thời điểm lý thuyết ngẫu nhiên phát triển, một số học giả nghiên cứu khung tổ chức cho rằng cấu trúc tối ưu của các DNSX đều có thể xác định được (Weber, 1946). Nhưng, trên thực tiễn cơ cấu DNSX có nhiều sự biến động. Các học giả của lý thuyết hiện đại cho biết rằng không thể xác định được một cơ cấu DNSX tối ưu cho mọi loại hình DNSX. Nghiên cứu Dik (2011) căn cứ quan điểm ngẫu nhiên dựa trên khung tổ chức xác định rằng một tổ chức tối đa hóa hiệu quả của nó bằng cách kết


hợp giữa cấu trúc và môi trường. Những tiền đề của khung ngẫu nhiên được Otley, (1980, trang 413) đề xuất “phương pháp tiếp cận lý thuyết ngẫu nhiên trong quản lý căn cứ theo giả định không có một hệ thống kế toán tối ưu có thể vận dụng cho tất cả các doanh nghiệp trong mọi hoàn cảnh. Quan điểm ngẫu nhiên gợi ý là các đặc điểm riêng của mỗi hệ thống kế toán sẽ tùy thuộc vào bối cảnh cụ thể của doanh nghiệp. Vì vậy, khung ngẫu nhiên phải nhận diện các đặc điểm riêng của từng hệ thống kế toán đến một số tình huống nhất định.”

Khái niệm phù hợp trong quan điểm ngẫu nhiên đã được Van de Ven & Drazin (1985) xác định theo ba cách tiếp cận là: Lựa chọn, tương tác và cách thức tiếp cận hệ thống. Trong cách tiếp cận thứ nhất (lựa chọn), nếu một DNSX muốn có hiệu quả, DNSX phải thích ứng với các đặc điểm ngữ cảnh tổ chức của nó. Đối với cách tiếp cận thứ hai (tương tác), phù hợp được hiểu như là một tác động tương tác của cấu trúc tổ chức và bối cảnh thực hiện (Van de Ven & Ferry, 1980). Trong trường hợp thứ ba (tiếp cận hệ thống), sự hiểu biết tốt hơn về thiết kế tổ chức được thu thập bằng cách điều tra đồng thời các tình huống khẩn cấp, các giải pháp thay thế và các tiêu chí thực hiện có trong tổ chức. Nghiên cứu này phù hợp với quan điểm thứ hai vì nó cho phép hiểu được hiệu quả của các tương tác giữa ngữ cảnh và việc thực hiện KTQTCL, và việc thực hiện KTQTCL sẽ tương tác làm tăng hiệu quả hoạt động.

Theo Chenhall (2007) Hiệu quả của một đơn vị căn cứ vào sự phù hợp của cơ cấu và các biến ngẫu nhiên của ngữ cảnh như môi trường, chiến lược, công nghệ, văn hóa. Các khung phù hợp về sự thích hợp của cơ cấu đơn vị và các biến theo ngữ cảnh được gọi là khung ngẫu nhiên. Trong tổng quan về khung ngẫu nhiên Islam và Hu (2012, tr 97) đã bình luận rằng “Thành quả hoạt động của tổ chức phụ thuộc vào sự phù hợp hoặc kết hợp giữa công nghệ, sự biến động môi trường, quy mô, đặc điểm của cơ cấu tổ chức và hệ thống thông tin của tổ chức”. Hay Otley (2016), khung ngẫu nhiên đặt trọng tâm vào cấu trúc của tổ chức, khung này đã được phát triển trong hai mươi


năm trước đó để xác định các hình thức cơ cấu nào phù hợp nhất với từng hoàn cảnh cụ thể.

2.4.1.2 Ứng dụng nội dung khung ngẫu nhiên vào giải thích sự tác động của các nhân tố đến KTQTCL và sự tác động đến thành quả.

Theo khung ngẫu nhiên, KTQT là thành phần của cơ cấu và cũng là một chức năng của các yếu tố môi trường tại đơn vị cụ thể (Cadez và Guilding, 2008; Dik, 2011). Căn cứ vào khung ngẫu nhiên trong nghiên cứu KTQT là quy trình điều chỉnh của KTQT với các biến ngẫu nhiên trong một đơn vị cụ thể. Các biến như môi trường, công nghệ, văn hóa, chiến lược, trình độ nhân viên KTQT được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu có thể kể đến như Otley (1980); Haldma và Langfield- Smith (2006); Cadez và Guilding (2008,2012); Ojra (2014); Al-Mawal (2015). Trong đó, biến ngẫu nhiên công nghệ là một yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến KTQT trong các đề tài. Công nghệ phát triển trong các DNSX là lý do dẫn đến yêu cầu thay đổi của KTQT. Cụ thể như trong nghiên cứu Chenhall (2007) khi DNSX với công nghệ sản xuất hàng loạt. Hoạt động quản trị cần thông tin hỗ trợ thường xuyên. Mặt khác, đối với DNSX khi dùng công nghệ sản xuất tiên tiến, nhu cầu quản trị và điều hành phải có sự năng động thúc đẩy nhân viên xử lý nhanh chóng với các tình huống phát sinh cụ thể (Woodward, 1965).

Lý thuyết này được nhiều học giả khám phá các biến ngẫu nhiên ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL tác động đến hiệu quả trong DNSX (Cadez & Guilding; 2008; Ojra, 2014; Al-Mali, 2015). Phần lớn các đề tài kết luận chưa có mô hình nhân tố tác động KTQTCL phổ biến cho các loại hình.

Gordon và Miller (1976) đề xuất rằng khi xây dựng hệ thống thông tin phải tùy thuộc và các biến ngẫu nhiên cụ thể của thị trường và quyết định có thể đóng góp vào hiểu biết hệ thống. Một số biến quan trọng với hoạt động đơn vị, theo khung ngẫu nhiên cho thấy trong bài báo bao gồm nhân tố (1) môi trường; (2) đặc điểm doanh nghiệp và (3) quyết định quản trị là những biến số quan trọng ( hình 2.1).


Môi trường


Hệ thống thông tin kế toán


Ra quyết định


Nguồn: NCS tổng hợp

Hình 2-1 Khung nghiên cứu Gordon và Miller (1976)

Trong vài thập kỷ qua, một số kỹ thuật KTQT đã được phát triển. Sự đổi mới này là cần thiết nhằm trợ giúp công nghệ hiện đại và qui trình quản trị mới. Theo Abdel-Kader và cộng sự (2008, trang 3) “Các kỹ thuật kế toán quản trị đã ảnh hưởng đến qui trình của quản trị chiến lược và đã chuyển trọng tâm của nó từ vai trò “đơn giản” xác định chi phí và quản trị tài chính, thành vai trò “tinh vi” tạo ra giá trị thông qua triển khai nguồn lực”. Kỹ thuật kế toán mới này hỗ trợ tìm kiếm lợi thế cạnh tranh, đáp ứng thách thức cạnh tranh toàn cầu. Do đó, để thích ứng với những phát triển công nghệ và môi trường cạnh tranh, đơn vị phải xây dựng hệ thống KTQTCL thích hợp với nhu cầu mới (Ojra 2014). Abdel-Kadet và Luther (2008) đã giải thích sự phù hợp của việc thực hiện các kỹ thuật tiên tiến phụ thuộc vào hoàn cảnh mà các kỹ thuật này đang sử dụng và điều này dẫn đến sự cần thiết cho sự giải thích của lý thuyết ngẫu nhiên.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hệ thống kế toán chỉ phù hợp với các biến ngữ cảnh cụ thể của đơn vị (Otley, 1980), như Otley (1980) đã đề xuất sự cần thiết phải xác định đặc điểm riêng của hệ thống kế toán liên quan đến một số trường hợp nhất định và chứng minh một sự phù hợp. khung ngẫu nhiên về KTQT dựa trên giả thuyết không có hệ thống KTQT thích hợp bao quát áp dụng như nhau cho toàn bộ đơn vị trong mọi hoàn cảnh (Waterhouse và cộng sự 1978). Mối quan hệ phức tạp sử dụng khung ngẫu nhiên để giải thích ảnh hưởng các nhân tố thực hiện KTQTCL tác động đến hiệu quả đã thu hút các học giả nghiên cứu mối quan hệ này (Al-Mali, 2015; Michael và cộng sự, 2017 và Kalkhouran và cộng sự, 2017). Theo khung ngẫu nhiên sử dụng trong đề tài về KTQTCL, biến thành quả được nghiên cứu như là một biến phụ thuộc chịu sự tác


động của KTQTCL và các biến ngẫu nhiên trong đơn vị (Chenhall, 2003). Nếu tổ chức có hiệu quả thấp là một nguyên nhân chính dẫn đến KTQT thay đổi và nhân tố nội bộ để cải thiện hiệu quả (Laitinen, 2006). Hay theo khung ngẫu nhiên hiệu quả của đơn vị là sản phẩm của sự phù hợp của hệ thống KTQTCL và các nhân tố ngẫu nhiên (Cadez và Guilding, 2008). Do đó, mối quan hệ của các biến ngẫu nhiên tác động đến thực hiện KTQTCL, và thực hiện KTQTCL tác động đến hiệu quả được giải thích bởi khung ngẫu nhiên, tức là khi đơn vị thực hiện kỹ thuật KTQTCL tương quan với đặc điểm của đơn vị sẽ góp phần làm tăng hiệu quả (Ojra, 2014). Hình 2.2 cho thấy mô hình ngẫu nhiên đơn giản của Weill và Olson (1989) được vận dụng để giải thích mối quan hệ của các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL tác động đến hiệu quả của đơn vị.


Nguồn: NCS tổng hợp

Hình 2-2 Mô hình ngẫu nhiên trong đề tài tổ chức của Weill và Olson (1989)

Dựa trên khung phân tích khung ngẫu nhiên, đề tài này kiểm tra mối quan hệ giữa các nhân tố nhận thức về thị trường; chiến lược kinh doanh; công nghệ, phân cấp quản trị; văn hóa đơn vị, trình độ nhân viên KTQT ảnh hưởng đến thực hiện KTQTCL tác động đến hiệu quả của đơn vị.

2.4.2 Lý thuyết thể chế

2.4.2.1 Nội dung lý thuyết

Định nghĩa về thể chế được Hamilton (1923) đưa ra lần đầu tiên là suy nghĩ, hành động phổ biến và lâu dài, được in sâu vào trong thói quen của một nhóm hoặc phong tục của một dân tộc, do đó các thể chế có thể được coi là các quy tắc bắt buộc và


gắn kết xã hội trong hoạt động của con người, cùng quan điểm Scapens (1994) lập luận thể chế là hình thức quy tắc cần thiết để phối hợp và gắn kết với hoạt động của con người. Veblen (2017) Thể chế là tính chuẩn hóa của các hành động hoặc các nguyên tắc nhằm xác định các hành động trong những trường hợp cụ thể, được các cá nhân trong một nhóm chấp nhận và tuân thủ các nguyên tắc này.

Theo Berthod (2016) khung thể chế dựa trên thể chế trong phân tích về thiết kế và tổ chức. Vì vậy đơn vị có thể được xem là một thể chế thu nhỏ, là một đơn vị với đầy đủ các đặc điểm của thể chế chung lớn hơn. “Khung thể chế là tập hợp các qui định chính thức và không chính thức hoặc những sự nhận thức, tín ngưỡng có tác động định hướng hay chi phối sự tương tác của các chủ thể với nhau trong những trường hợp cụ thể. Đồng thời, những thay đổi trong hành vi của đơn vị như về mô hình, kỹ thuật, phương pháp, quy trình,…cũng được khung thể chế giải thích do áp lực ảnh hưởng của các bên liên quan và cách thức tổ chức để tồn tại và phát triển theo pháp luật” (Ninh Thị Kim Thoa, 2015, tr26). Theo quan điểm của xã hội học, ba cơ chế thay đổi đơn vị gồm có cưỡng chế, lan tỏa và bắt chước (Dimaggio và cộng sự, 1983), khung thể chế giải thích sự thay đổi trong hành vi của đơn vị do sự tác động của môi trường hoạt động bên ngoài, do đó, mỗi đơn vị tồn tại trong một môi trường kinh doanh với đặc điểm về văn hóa và công nghệ nhất định. Nếu càng có nhiều đơn vị hoạt động giống nhau thì có thể sẽ được xã hội chấp nhận ở mức càng cao. Trong quá trình sản xuất kinh doanh các đơn vị không thể hoạt động một cách riêng biệt mà phải thích nghi với sự biến động thị trường qua việc xây dựng các mối quan hệ và thay đổi cơ cấu tổ chức cho phù hợp. Điều này dẫn đến kết quả đơn vị thay đổi để tồn tại và thích ứng với các thể chế trong thị trường cạnh tranh. Các nhân tố ảnh hưởng bao gồm kinh tế, chính trị, văn hóa và công nghệ.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 31/03/2024