mối quan hệ đồng biến xảy ra, cho thấy rằng đây có thể là một yếu tố để ngân hàng ngoại thương Cần Thơ xem xét trong kiểm duyệt lượng tín dung. Vì nếu DN có tham gia hiệp hội chứng tỏ DN đó có một uy tín tốt, đồng thời họ có được một mối quan hệ, mối liên kết khá rộng từ các hiệp hội mà họ là thành viên; do đó, đó có thể là một thước đo khả năng hoạt động của DN khá tốt.
o βSản phẩm khác = 39.847,04 > 0. Biến này nhằm thể hiện sự đa dạng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. Qua cách ghi nhận giá trị như giới thiệu ở phần trên thì hệ số góc của biến cho ta thấy rằng nếu DNNVV sản xuất hoặc kinh doanh từ hai sản phẩm trở lên thì sẽ được ngân hàng Ngoại thương Việt Nam xem xét cung cấp tín dụng nhiều hơn so với DN chỉ sản xuất một sản phẩm là vào khoảng 39,8 tỷ đồng (nếu các yếu tố khác không đổi). Đây là biến có hệ số lớn nhất trong mô hình hồi quy OLS này, tuy nhiên, sai số chuẩn của biến này cũng rất lớn
( ̂) . Điều này đồng nghĩa rằng hệ số được
ước lượng của biến sản phẩm phụ này không được chính xác như những ước lượng của các biến độc lập cũng có ý nghĩa thống kê khác trong mô hình (ngoại trừ biến giả TNHH).
Mô hình thứ 2 này có độ tin cậy cao với nhiều biến độc lập có ý nghĩa thống kê là một bước đệm tốt để đề tài có thể dựa vào đó đưa ra các đề xuất về gỉải pháp hay kiến nghị thiết thực nhất có thể. Tuy nhiên, có một điều đang tiếc là kết quả của tỷ số Mills nghịch đảo IMR lại có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này đồng nghĩa rằng, một nhược điểm khác của mô hình là có sự khác biệt hay chênh lệch về đặc điểm nào đó giữa hai bộ mẫu được đo lường ở bước 1 và bước 2. Đây có thể là câu trả lời cho kết quả về sự khác biệt của độ tin cậy ở hai mô hình lớn như vậy.
Tóm lại, sau tất cả những phân tích ở chương này ta có thể thấy được những kết quả quan trọng để trả lời cho mục tiêu nghiên cứu chính trong đề tài như sau:
- Kinh nghiệm là yếu tố rất quan trọng. Vì kết quả nghiên cứu thể hiện rằng nó là yếu tố có ý nghĩa thống kê ở cả hai mô hình. Hay nói một cách dễ
hiểu là độ dày trong kinh nghiệm quản lý của chủ doanh nghiệp song hành cùng tuổi thọ của DN là một nhân tố tác động tích cực đến đồng thời cả khả năng vay tín dụng chính thức và lượng tín dụng được vay của DN. Và đây cũng là yếu tố duy nhất tác động đến khả năng vay vốn của DN trong mô hình của đề tài.
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam khu vực TP.Cần Thơ - 6
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam khu vực TP.Cần Thơ - 7
- Phân Tích Các Nhân Tố Tác Động Đến Quyết Định Cung Cấp Tín Dụng Của Nh Ngoại Thương Khu Vực Cần Thơ Đến Phân Khúc Dnnvv Trong Năm 2018
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam khu vực TP.Cần Thơ - 10
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam khu vực TP.Cần Thơ - 11
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
- Tương tự như nhân tố Kinh nghiệm, hầu hết các nhân tố còn lại được kiểm soát trong mô hình phân tích sự phụ thuộc của số lượng vốn tín dụng cung cấp cho DNNVV đều tác động đồng biến với nhau. Điều này đồng nghĩa là, nếu DN muốn nâng cao lượng vốn được vay từ ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thì bên cạnh sự nâng cao về kinh nghiệm quản lý, cũng phải đồng thời tìm cách tăng giá trị của các yếu tố như tài sản, lợi nhuận, tích cực tham gia vào nhiều hiệp hội DN khác nhau hơn và đẩy mạnh hoạt động sản xuất bằng cách đa dạng hoá sản phẩm của m nh cũng như hoạt động xuất khẩu của DN.
CHƯƠNG 5
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG, PHÂN KHÚC DNNVV TẠI NH NGOẠI THƯƠNG KHU VỰC CẦN THƠ
5.1. KẾT LUẬN CHUNG
Nhờ vào các chiến lược này cùng với các chính sách tương ứng, Việt Nam đã tr nh diễn một sự tăng trưởng kinh tế rất ấn tượng trong gần hai thập kỷ qua (McCaig and Pavcnik, 2013). Kể từ năm 2000 đến 2018, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm ở Việt Nam trung b nh là 6,52%10, mặc dù có sự biến động do cuộc khủng hoảng năm 2008. Tuy nhiên, sự tăng trưởng ấn tượng này không mang lại sự phát triển vượt bật cho các DN trong nước. Thật vậy, các công ty nước ngoài và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đóng một vai trò hàng đầu trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng tương đối cao hơn trong các lĩnh vực sản xuất
(Nguyen, 2014). Trong khi đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện chiếm tỷ trọng 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam11, đóng góp tới 45% vào GDP, 31% vào tổng số thu ngân sách và thu hút hơn 5 triệu lao động. Nhưng hiệu suất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước cho thấy một bức tranh hỗn hợp hơn. Trong lĩnh vực sản xuất, năng suất lao động của các DNNVV trong nước đã bị đ nh trệ kể từ năm 2011. Tuy nhiên, có thể thấy sự khác biệt lớn giữa các
ngành và giữa các loại h nh doanh nghiệp khác nhau (CIEM, DoE, ILSSA, and UNU-WIDER, 2016). Một trong những nguyên nhân kiềm hãm hiệu suất của các DN này là do khả năng tiếp cận vốn khá hạn hẹp. Mặc dù Việt Nam được xếp hạng thứ 29/190 quốc gia về chỉ số tiếp cận tín dụng, thế nhưng đến thời điểm hiện tại, vẫn có đến 60% DNNVV chưa tiếp cận được nguồn vốn12. DNNVV chỉ có dư nợ
10 https://tradingeconomics.com/vietnam/gdp-growth-annual
11 Theo Tổng cục thống kê: Kết quả chính thức Tổng điều tra kinh tế 201
12 Báo điện tử của đài tiếng nói Việt Nam, 08/2018.
tín dụng ở mức 22-25% nghĩa là chỉ chiếm 1/5 tổng dư nợ cả nước. Trong khi đó, khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác cũng rất hạn chế.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng doanh nghiệp nói chung, hay DNNVV nói riêng là điều không thể thiếu cũng như không thể tách rời. Mối quan hệ này không chỉ ảnh hưởng đến tình hình phát triển của DN hay NH mà còn ảnh hưởng đến t nh h nh kinh tế của một khu vực và của cả nước. Khi giao dịch với ngân hàng, DN sẽ được hỗ trợ các khoản tín dụng, quản lý tài sản và cung cấp các dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế, góp phần đáng kể vào lợi nhuận hay mở rộng quy mô hoạt động của DN. Về phía ngân hàng, hoạt động kinh doanh của họ hiện nay là huy động tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán, các hoạt động này gắn liền với hoạt động của DN. Nếu DN hoạt động hiệu quả sẽ góp phần đáng kể vào kết quả hoạt động của NH và ngược lại nếu NH hoạt động hiệu quả sẽ hỗ trợ nguồn lực cho DN hoạt động dễ dàng hơn. DN và NH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau góp phần làm phát triển nền kinh tế ở khu vực, góp phần ổn định kinh tế, chính trị.
V vậy, nội dung ở phần tiếp theo này là cần thiết nhằm đề xuất các giải pháp tháo gỡ các rào cản trong mối quan hệ giữa DNNVV và ngân hàng đề các DN có thể tiếp cận lượng tín dụng dễ dàng.
5.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÍN DỤNG VÀ LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NH NGOẠI THƯƠNG CỦA CÁC DNNVV
Qua phần lược khảo các tài liệu nghiên cứu tương tự cùng với phần phân tích dựa vào các số liệu thực tế phát sinh, đề tài đã t m thấy rằng có nhiều nhóm yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến khả năng vay vốn và lượng tín dụng được cấp bởi NH Ngoại Thương chi nhánh Cần Thơ. Nhằm góp phần giúp cho các DNNVV ở TP. Cần Thơ có thể khắc phục được những khó khăn, trở ngại nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn tín dụng, trong phần này, tác giả đề xuất một số giải pháp khái quát như sau:
5.2.1. TÍCH CỰC NÂNG CAO KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT, KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Như kết quả thu được từ thực tế phân tích, DN muốn tăng khả năng tiếp cận vốn và lượng vốn vay tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam th cần phải nâng cao kinh nghiệm của chính m nh. Và đây cũng là yếu tố duy nhất có tác động trong cả hai mô h nh. Hay nói cách khác, việc nâng cao giá trị của yếu tố này sẽ đem lại sự cải thiện ở nhiều mặt khác nhau.
Yếu tố kinh nghiệm trong đề tài này được tác giả định lượng và đo lường thông qua số năm hoạt động của DN. Điều này cũng đồng nghĩa rằng kinh nghiệm trong trường hợp này là kinh nghiệm được rút ra từ chính bản thân của DN trong suốt những năm tháng hoạt động trong thị trường. Tuy nhiên, kinh nghiệm là yếu tố có thể chia sẽ và học hỏi từ những cá nhân khác. Do đó, bên cạnh việc DN có thể tự nâng cao năng lực bản thân thông qua những năm tháng tương tác trên thị trường, DN còn có thể nâng cao kinh nghiệm của m nh bằng cách học hỏi, trao đổi với những DN hoạt động trong cùng lĩnh vực. Và nơi các doanh nhân có thể trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong cùng lĩnh vực kinh tế là tham gia vào các hiệp hội kinh tế. Đây cũng là yếu tố quan trọng trong mô h nh và sẽ được đề cập cụ thể ở mục tiếp theo. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể tự trao dồi mở rộng hơn nữa kinh nghiệm của m nh bằng cách theo dòi và tương tác tại các diễn đàn kinh tế uy tín hiện có tại Việt Nam.
Và diễn đàn mà DN không thể bỏ qua khi muốn nắm bắt các thông tin trên mặt trận kinh tế Là Diễn Đàn Kinh Tế Tư Nhân. Diễn Đàn Kinh Tế Tư Nhân là diễn đàn có chất lượng tốt hàng đầu tại VN hiện tại v có thể kết nối với hơn 300 đại biểu là lãnh đạo từ khối Chính phủ, lãnh đạo các tổ chức, DN và các chuyên gia, nhà đầu tư trong và quốc tế quan tới tới hỗ trợ các DN tư nhân phát triển. Do đó, đây là nơi để các DN t m hiểu, nắm bắt thực trạng môi trường đầu tư, kinh doan của khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam. DN đến đây có thể trao đổi, thảo luận tự do về những cơ hội, khó khăn và thách tức đối với kinh tế tư nhân đồng thời đưa ra các cơ chế, chính sách khuyến khích và giải pháp tạo động lực phát triển kinh tế tư nhân tại VN.
5.2.2. ĐA DẠNG HOÁ HƠN NỮA TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Trong bảy nhân tố tác động đến lượng vốn vay th có thể thấy rằng để tăng lượng vốn vay lên nhiều nhất th DN nên xem xét đến việc đa dạng hoá trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của m nh.
Đa dạng hoá trong hoạt động kinh doanh là một yếu tố trong đề tài được đánh giá như sự đa dạng trong số loại sản phẩm mà DN sản xuất hoặc buôn bán. Từ kết quả mô h nh đã giúp tác giả có minh chứng mang tính khoa học về mối tương tác đồng biến giữa sự đa dạng về loại sản phẩm sản xuất, kinh doanh và lượng vốn vay. Từ đó, có thể nói rằng, DN cần tích cực hơn trong việc đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh của m nh để có thể “thu hút” nhiều hơn nữa lượng vốn tín dụng từ ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Hiện tại trong bộ mẫu chỉ có khoảng 20% số DN được đánh giá là có sự đa dạng trong kinh doanh, tức họ có sản xuất hoặc buôn bán từ hai loại sản phẩm khác nhau. Qua đó, ta thấy rằng, đây thực sự là yếu tố cần được “nâng cấp” của DN để có thể tiếp cận được lượng tín dụng nhiều hơn từ phía ngân hàng.
Đa dạng hoá sản phẩm có thể thực hiện từ hai cách khác nhau:
Thứ nhất, doanh nghiệp có thể đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh của mình bằng cách tăng cường sản xuất hoặc kinh doanh loại sản phẩm thứ hai bên cạnh sản phẩm truyền thống của DN. Sản phẩm này có thể là loại sản phẩm tương tự với sản phẩm mà DN hiện tại đang kinh doanh. Hoặc nó cũng có thể là sản phẩm bổ sung cho sản phẩm chính của DN. Tuy nhiên, quyết định lựa chọn loại sản phẩm nào để mở rộng thì DN cũng cần phải đánh giá thị trường, tìm hiểu về thị hiếu của khách hàng trước khi đưa ra quyết định cuối cùng của mình.
Ngoài ra, không nhất thiết phải là sản xuất hay kinh doanh một sản phẩm hoàn toàn mới hoặc tương tự của DN mà nó có thể đơn giản là tìm hiểu thêm về các phương pháp mới để có thể tận dụng lại những phụ phẩm trong hoạt động sản xuất của chính DN. Tận dụng tiếp phụ hoặc thứ phẩm
để tạo ra các sản phẩm mới tốt hơn, để có thể bày bán trên thị trường thay vì bỏ đi hoặc bán với giá rất thấp. Đó cũng là cách đa dạng sản phẩm thứ hai mà tác giả đề xuất.
5.2.3. DOANH NGHIỆP CẦN TÍCH CỰC THAM GIA VÀO HOẠT ĐỘNG HIỆP HỘI TẠI KHU VỰC VÀ TRONG VÙNG
Theo kết quả phân tích hồi quy về các nhân tố ảnh hưởng đến lượng tín dụng của DNNVV tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong chương 4, có thể thấy ngân hàng khá quan tâm đến yếu tố Hiệp hội. Như đã được chỉ ra trong kết quả phân tích của tác giả Nguyễn Minh Phục năm 2012, độ tin cậy của các ngân hàng thương mại trong khu vực TP. Cần Thơ đối với các DNNVV còn rất hạn chế do mối quan hệ xã hội và quan hệ nghiệp vụ còn yếu. Một lần nữa, cùng với kết quả phân tích trong đề tài, để có thể tiếp cận tốt hơn với ngân hàng ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, các DNNVV cần phát triển mạnh hơn nữa mối quan hệ xã hội của m nh. Cụ thể, DN có thể mở rộng quan hệ bằng việc tham gia vào các hiệp hội uy tín tại địa bàn như Hiệp hội doanh nghiệp thành phố cần thơ (CBA), hay như Hội Doanh nhân trẻ Thành phố Cần Thơ,… Từ hoạt động của hiệp hội, các DNNVV có thể trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau, t m hiểu rò hơn về các h nh thức tín dụng của NH, qua đó có thể giúp giải quyết phần nào những khó khăn của DN (như về quy tr nh, thủ tục vay vốn, các h nh thức tín dụng thích hợp với DN,…) khi tham gia vay vốn từ ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Trong hoạt động của hiệp hội thường tổ chức các buổi trao đổi, sinh hoạt những thông tin mới nhất với những đại diện đến từ các DN khi có những thay đổi về các quy định từ Nhà nước, để họ có thể cập nhật thông tin nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi hơn trong kinh doanh. Do đó, tham gia hiệp hội không những có thể tháo dỡ dần những rào cản về mối quan hệ xã hội của giữa DN và ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, mà còn có thể giúp DN am hiểu hơn về những thay đổi về pháp luật để họ có thể điều chỉnh các hoạt động của m nh, để tránh phát sinh các chi phí không cần thiết như loại chi phí thời gian hay chi phí không chính thức chẳng hạn.
5.2.4. NÂNG CAO KHẢ NĂNG THANH TOÁN ĐỂ CÓ THỂ LINH HOẠT VÀ CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG TÌNH HUỐNG KHÁC NHAU TRONG KINH DOANH
Nhóm chỉ tiêu thể hiện về khả năng thanh toán của DN cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lượng vốn vay và cần được DN xem xét trong quá tr nh hoạt động kinh doanh khi muốn tăng lượng vốn tín dụng. Cụ thể, DN cần tích cực có những biện pháp để tăng giá trị tài sản và lợi nhuận của công ty. Và từ kết quả nghiên cứu thực tế của đề tài, như đã phân tích cụ thể ở nội dung chương 4, để thay đổi lượng vốn tín dụng lên nhiều hơn th yếu tố về lợi nhuận tác động mạnh hơn so với tài sản của DN.
Doanh nghiệp hoạt động càng hiệu quả, lợi nhuận sẽ càng cao và đồng thời kéo theo sẽ có khả năng thanh toán vững chắc hơn. Do đó, lợi nhuận thể hiện mối quan hệ tác động thuận với lượng vốn vay trong đề tài là điều hoàn toàn phù hợp thực tế tại địa bàn phân tích. V vậy, nâng cao lợi nhuận không chỉ góp phần nâng cao thu nhập của DN, mà điều này sẽ góp phần nâng cao lượng tín dụng được tiếp nhận từ ngân hàng trong tương lai. Như ta đều biết, để tăng trưởng lợi nhuận th DN nh n chung sẽ có hai cách thức khái quát nhất là tăng doanh thu sản xuất kinh doanh hoặc là t m phương pháp giảm chi phí phát sinh trong quá tr nh hoạt động sản xuất kinh doanh của m nh:
Đối với biện pháp giá tăng lợi nhuận thứ nhất: tăng doanh thu. Nghiên cứu này cũng vẫn chú trọng vào đề xuất khuyến khích các DN đa dạng hoá sản phẩm của mình. Điều này có thể giúp DN tăng doanh thu bán ra bằng cách tăng số lượng sản phẩm bán ra cho các nhóm đối tượng khách hàng truyền thống, đồng thời, tăng doanh số nhờ mở rộng đối tượng khách hàng mới – nhóm những khách hàng yêu thích loại sản phẩm thứ hai của DN.
Đối với biện pháp giá tăng lợi nhuận thứ hai: tiết kiệm hoặc giảm chi phí hoạt động. Hầu hết hiện tại, các DNNVV trong quá trình hoạt động của m nh đều chưa tiến hành lập kết hoạch cụ thể, đặc biệt không tiến có đưa ra dự toán cho các chi phí phát sinh trong năm tài chính sắp tới. Điều này