hành động hay về nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ,… các phương tiện nghệ thuật khác nhằm thể hiện sâu sắc chủ đề tư tưởng của nhà văn.
Qua kiểu nhân vật cô đơn, nhà văn đi sâu khai thác vào bên trong trạng thái tâm lý bản thể của con người. Cô đơn được thể hiện là những nỗi buồn, sự xa lánh, cô độc, muốn trốn tránh thực tại. Và qua khảo sát, tìm hiểu, có thể thấy kiểu nhân vật này đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn học trên thế giới, trở thành đề tài của nhiều tác phẩm qua dòng chảy thời gian. Trong văn học phương Tây, có thể thống kê hàng loạt tác phẩm viết về cái cô đơn, thậm chí lấy nhan đề là cái cô đơn và có nhân vật cô đơn như: Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết của G. Marquez), Những ngôi sao cô đơn (chồng Hollywood, vợ Hollywood, tiểu thuyết hai tập của J.Collin), Bồ câu cô đơn (tiểu thuyết hai tập của Larry McMurtry), Người đàn bà cô đơn (tiểu thuyết của J.Blume), Cô đơn trên mạng (tiểu thuyết của Janusz Leon Wiśniewsk), Nỗi cô đơn của các số nguyên tố (tiểu thuyết của Paolo Giordano),…
Ở Phương Đông, các nhà văn cũng xây dựng nên những tác phẩm viết về nỗi cô đơn và nhờ nhân vật của mình truyền tải đến độc giả: Có thể kể đến các tác phẩm của các tác giả như: Hồng lâu mộng (tiểu thuyết của Tào Tuyết Cần); Nỗi lòng (tiểu thuyết của Natsume Sôseki); Báu vật của đời, Sống đọa thác đày… (tiểu thuyết của Mạc Ngôn); Rừng Na-uy (tiểu thuyết của Haruki Murakami);…
Trong văn học Việt Nam, vấn đề này cũng được các nhà văn khai thác từ sớm. Tuy nhiên, đến thời kì đất nước bước vào công cuộc đổi mới thì kiểu nhân vật cô đơn mới có dịp được thể hiện rõ nét và chân thực, có thể kể đến các tác phẩm như: Thời xa vắng (Lê Lựu); Nỗi buồn chiến tranh(Bảo Ninh); Bến không chồng (Dương Hướng); Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường); Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng); Tướng về hưu, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Cún,….(Nguyễn Huy Thiệp); Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Cuộc đời dài lắm, Bãi bờ hoang lạnh, Ba lần và một lần,… (Chu Lai); Bước qua lời nguyền, Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật,… ( Tạ Duy Anh); Gia đình bé mọn (Dạ Ngân); Cải ơi,
Cánh đồng bất tận,… (Nguyễn Ngọc Tư); Thiên sứ (Phạm Thị Hoài); Dĩ vãng, Nước mắt đàn ông, Tân cảng, Cú mèo và rượu hoa, Hậu thiên đường,… (Nguyễn Thị Thu Huệ), Cơ hội của chúa (Nguyễn Việt Hà);… Cuộc đời ngoài cửa, Giữa vòng vây trần gian, Bến vô thường, Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam),….
Từ việc sơ lược thống kê các tác phẩm như trên, có thể thấy, con người cô đơn trong văn học đã đi một quãng đường dài từ cổ chí kim, từ Tây sang Đông, với nhiều cách nhận thức và phương thức phản ánh khác nhau, mang theo thông điệp của nhà văn về thế giới và con người.
Như đã nói ở trên, kiểu con người cô đơn trong văn học Việt Nam cũng đã được quan tâm khai thác từ sớm. Trong các tác phẩm thời trung đại kiểu nhân vật này đã ít nhiều được đưa lên trang viết. Vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến, văn học trung đại đề cao tính trật tự, với chức năng “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” . Nhiều tác giả vì cái tôi quá lớn mà không muốn khuất phục triều đình, kẻ thù đã thể hiện sự bất mãn với hiện thực và lý tưởng sống. Cái cá tính mạnh mẽ của họ đã vượt qua “khung thời đại”. Nỗi lòng của cái tôi cô đơn khi nhận thấy thân phận nhỏ bé, số kiếp hữu hạn của mình trước thiên nhiên. Đó là nỗi cô đơn của một nhân cách vĩ đại nhưng không ai hiểu mình, chấp nhận nén chí lớn từ quan về ở ẩn trong thi ca Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm . Đó là cái cô đơn trong thơ Hồ Xuân Hương khi con người bị lạc lõng giữa những trói buộc lề thói của xã hội phong kiến, rồi đơn độc phản kháng; hay nỗi cô đơn choáng ngợp đến mức đại thi hào Nguyễn Du nghi ngờ không biết có tìm được người đồng cảm với mình ở ba trăm năm sau hay không? Đó còn là nỗi cô đơn, phẫn chí và u uất của các tài tử, phong lưu, “ngông”, ngất ngưởng như Nguyễn Công Trứ , Cao Bá Quát, Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,….
Sang đầu thế kỉ XX, con người cô đơn có dịp phát triển mạnh, trở thành mối quan tâm của nhiều nghệ sĩ. Thời kì này, cái cô đơn trong văn học gắn liền với cuộc đấu tranh giữa những giá trị cũ của xã hội phong kiến và những giá trị mới ảnh hưởng
Có thể bạn quan tâm!
- Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và Nguyễn Danh Lam - 2
- Đổi Mới Tư Duy Nghệ Thuật Và Cảm Hứng Cô Đơn Trong Văn Xuôi Việt Nam Sau 1975
- Khái Quát Về Kiểu Dạng Nhân Vật Cô Đơn Trong Văn Học Và Văn Học Việt Nam
- Nhân Vật Cô Đơn Vì Không Thể Hòa Nhập Với Cuộc Sống Thực Tại
- Các kiểu dạng nhân vật cô đơn trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và Nguyễn Danh Lam - 7
- Nhân Vật Cô Đơn Vì Lạc Lõng Giữa Cộng Đồng, Gia Đình
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
từ văn hóa phương Tây; đó là sự bừng tỉnh ý thức cá nhân, “cái tôi” riêng tư khi con người muốn chống trả, thoát khỏi tư tưởng, lề thói lạc hậu của xã hội phong kiến, hướng đến lối sống tự do nhưng không thể. Tiếp sau đó là nỗi cô đơn trong Thơ Mới thể hiện ở nỗi buồn của cả một thế hệ: Ảo não thê thiết như Huy Cận, bi kịch như Hàn Mạc Tử, u uất như Vũ Hoàng Chương, rợn ngợp như Xuân Diệu,… những nỗi buồn xuất phát từ cảm nhận nhạy bén, tinh tế trước thiên nhiên và nhu cầu được khẳng định cái tôi của người nghệ sĩ. Ở trào lưu chủ nghĩa hiện thực, con người cô đơn đi vào văn học trong sự đối lập giữa thân phận người nông dân nhỏ bé không đủ sức chống lại những thế lực tàn ác, xấu xa nên bị xã hội vùi dập, làm biến chất, tha hóa; hoặc những người trí thức tiểu tư sản không thực hiện được ước mơ, lý tưởng, phải chấp nhận cuộc sống “mòn” tầm thường và chỉ dám nuôi hoài bão trong trí tưởng tượng. Tiêu biểu trong những sáng tác của Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân,…
Do yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử những năm 1945 -1975, con người trong văn học giai đoạn này được miêu tả từ góc độ cộng đồng, do đó viết về cảm hứng cô đơn, nhân vật cô đơn là một trong những đề tài bị né tránh, kiêng kị trong văn học nghệ thuật. Sau khi hòa bình, đất nước đi vào quĩ đạo đổi mới, ý thức cá nhân xuất hiện trở lại, văn học được giải phóng khỏi chức năng tuyên truyền, cổ vũ, khích lệ, động viên để mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực trong tính đa chiều, phức tạp, trong đó mở rộng hướng khai thác, khám phá cuộc sống của con người là vấn đề được quan tâm hơn cả để văn học được trở về là chính nó “Văn học là nhân học”. Với những thay đổi cơ bản trong cảm hứng sáng tác và quan niệm nghệ thuật về con người theo hướng khám phá đời tư và chú trọng đời sống nội tâm, chuyển từ con người anh hùng sang con người đời thường, từ cái chung sang cái riêng, các nhà văn đã xây dựng những hình tượng con người cá nhân và để con người thường xuyên đối diện, trăn trở với chính mình. Tiếp nối chủ đề cô đơn, văn học đương đại phản ánh nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trong xã hội, ngay giữa quê hương, làng xóm, cộng đồng, giữa những người thân yêu. Và hơn thế, con người cô đơn trong văn học đương đại còn gắn liền với thái
độ trốn chạy thực tế và khước từ xã hội, phân vân không biết có nên đến với cuộc đời hay không,… Những điều này đã được các nhà văn đưa vào trang viết một cách cụ thể, chân thực và sinh động. Người đọc có thể bắt gặp trong sáng tác của Nguyễn Khải với kiểu nhât vật "lạc thời"; Trong sáng tác của Chu Lai, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Lê Lựu, Bảo Ninh,… là kiểu nhân vật bị chấn thương tinh thần bởi di chứng chiến tranh để lại khiến cho họ đánh mất mối liên hệ với thực tại, đi sau thực tại.
Ở Tạ Duy Anh còn có những trang viết ám ảnh về hành trình cô độc của con người trong cuộc xô dạt dữ dằn đầy khắc nghiệt của thời cuộc; Ở Nguyễn Huy Thiệp, là nhân vật cô đơn, lạc loài giữa cuộc sống gia đình, cộng đồng có nhiều biến động. Nguyễn Danh Lam là những con người cô đơn điển hình của xã hội hiện đại,….
Như vậy, có thể nói con người cô đơn là một kiểu nhân vật phổ biến trong văn học, nhưng ở mỗi thời kỳ, giai đoạn và trong mỗi tác phẩm con người cô đơn lại có những sắc thái khác nhau, tùy vào chủ ý của người sáng tác.
Chương 2: CÁC KIỂU DẠNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Con người luôn là đối tượng trung tâm của rất nhiều loại hình nghệ thuật, trong đó có văn học. Marxim Gorki đã từng nói “văn học là nhân học”, tức là khoa học về con người. Văn học đã đi một chặng đường dài từ văn học dân gian qua văn học trung đại; từ Đông sang Tây, dù trực tiếp hay không thì văn học vẫn hướng đến con người. Và ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học, mỗi nhà văn lại có những quan niệm khác nhau, cách thức xây dựng thể hiện về con người khác nhau.
Văn học Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm và cũng đã có những quan niệm khác nhau về con người. Mỗi nhà văn là một thế giới riêng, họ có sự tiếp nhận những ảnh hưởng khác nhau dội đến từ cuộc sống bên ngoài, do vậy, quan niệm nghệ thuật nói chung, quan niệm nghệ thuật về con người nói riêng của họ hết sức phong phú, đa dạng. Quan niệm đó sẽ chi phối sâu sắc đến công việc sáng tạo của nhà văn. Bởi thế, con người trong văn học không phải con người tự nhiên trần trụi, cũng không phải con người xã hội chung chung mà là con người cụ thể đã được mã hóa qua thiên kiến chủ quan của người nghệ sĩ, đó là biểu hiện cụ thể, sinh động quan niệm nghệ thuật và thế giới quan của nhà văn về con người.
Khảo sát qua sáng tác của các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Chu Lai và Nguyễn Danh Lam chúng tôi nhận thấy có hai kiểu dạng nhân vật cô đơn tiêu biểu: Cô đơn từ bản thể và cô đơn vì không thể hòa nhập với cuộc sống thực tại.
2.1. Nhân vật cô đơn từ bản thể
Nỗi cô đơn của con người có nhiều dạng thức, nhưng có khi cô đơn cũng trở thành thuộc tính người, như định mệnh đã an bài: Trót sinh ra làm người tất phải nếm trải, gánh chịu trạng thái cô đơn. Ngay từ thuở lọt lòng, con người đã phải đối mặt với sự cô đơn đã được ấn định từ trước, cho đến khi lớn lên phải đối mặt với cuộc sống với biết bao vấn đề nhân sinh thế sự phức tạp, cùng bao nhiêu tai họa luôn rình rập, bủa vây, sẵn sàng ập đến bất cứ lúc nào. Ngay cả khi chết đi, con người cũng
không tránh khỏi nỗi cô đơn đến rợn ngợp. Nỗi cô đơn là một trạng thái tâm lý, luôn xuất hiện thường trực trong con người.
Đọc Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh), nhân vật “thai nhi” – một đứa bé còn nằm trong bụng mẹ đã phải tự đấu tranh để đưa ra quyết định có ra làm người, có ra để sống hay không? Nó phân vân từ khi còn trong bụng mẹ. Một mình nó với những dòng suy nghĩ, cảm xúc riêng mà thế giới ngoài kia chẳng thể nào biết đến, ngay cả mẹ nó cũng không thể nào hiểu được.
Ở những dòng đầu tác phẩm, người đọc cũng có thể nhận thấy sự háo hức, trông ngóng, mong chờ được ra đời để thành người, để được hòa nhập vào cộng đồng người đó: “Tôi đếm từng giờ. Còn bảy mươi hai giờ nữa tôi mới hết giai đoạn bào thai. Sau đó chỉ còn là một việc giãy đạp, gào thét mà chui ra. Thế là thành người. Tôi khao khát chờ đến cái ngày vĩ đại ấy” [52]. Thế nhưng, niềm mong mỏi, hào hứng, ấy của “tôi” bỗng gặp phải nhiều ngăn cản. Trước cái ý định muốn được chui ra cho thỏa niềm ước ao, để mẹ đỡ lo lắng, mệt mỏi thì bao nhiêu sự kiện dồn đến, khiến nhân vật phân vân, do dự. Cuối cùng, sau khi đã nán lại và nghe ngóng qua nhiều sự kiện, nhiều câu chuyện thẩm thấu được qua người mẹ, nhân vật thấy cuộc đời ngoài kia có quá nhiều điều nó không thể nào hiểu nổi, thậm chí, thấy có nhiều bất trắc và nguy hiểm: “Cái cuộc đời ngoài kia cũng bất trắc và nguy hiểm lắm nhỉ. Có biết bao tai vạ khó lường mình còn chưa cắt nghĩa được bằng từ ngữ. Vậy thì dại gì mà chui vào rọ khi mình có toàn quyền quyết định.”[53].
Với cương vị là thiên sứ nhỏ đến từ thiên đường, bản thân nó tự phán xét cuộc đời ngoài kia, nó làm phép thử cho những bậc sinh thành, xem họ có xứng đáng với tên gọi là “cha” là “mẹ”. Hai lần định chui ra cất tiếng chào thế giới thì hai lần nó co lại vì những biến cố bị cắt ngang, cuộc sống ngoài kia thật tăm tối độc ác với biết bao vấn đề khiến “tôi” nghi ngờ, ngần ngại. Một mình “tôi” với những suy nghĩ, quyết định mà không ai có thể nhìn thấy, không ai có thể hiểu, thậm chí cả người mẹ đang “đèo bòng” “tôi”. Và nó muốn tiếp tục cuộc chơi của riêng mình để khám phá, trải
nghiệm. Vì một câu hỏi lớn: “Cuộc sống có đáng hay không?”. Bản thân những suy nghĩ, sự phân vân do dự, quyết định ấy là của riêng mình nhân vật. Không ai hiểu, không ai chia sẻ, khiến thai nhi cô đơn với chính suy tưởng của mình.
“Trẻ em vốn là sự cứu rỗi cái cô đơn của người lớn”, là đấng thiên thần đích thực của kiếp người. Mỗi con người được sinh ra là từ sự ân sủng thăng hoa của tình yêu. “Khi còn là thiên thần ở trên trời, tôi và những linh hồn khác đều thuộc những bài hát ca ngợi tình yêu và sự mầu nhiệm. Tình yêu tạo ra sự mầu nhiệm và được tạo bởi sự mầu nhiệm. Trong niềm ngây ngất, một mầu nhiệm lớn lao nhất được tạo ra, ấy là sự có mặt của chúng tôi, như một sự gia ân của đấng tối linh không hiện hình nhưng hiện hữu ở khắp nơi.”[52]. Thế mà sao, giữa những cuộc gặp, những câu chuyện mà “tôi” nghe được ở thế giới bên ngoài thông qua mẹ thì trẻ con luôn bị người ta chối bỏ bằng hình thức này hay hình thức khác. Khiến cho “tôi” hoài nghi, thậm chí là thất vọng, Ở cõi nhân sinh, có những “Chiếc thai đã đủ tư cách làm người nhưng không có tư cách công dân và từ kiếp trước đã bất hợp pháp. Người ta không cảm thấy có nghĩa vụ phải chăm sóc nó. Nó là hiện thân của điều đáng tởm nhất mà con người phạm phải. Việc cần phải làm là hãy để cho nó chết. Chỉ khi đó lương tâm mới thanh thản và không còn ai vì nó mà bị ám ảnh về tội lỗi”. [53]. Và có một điều buồn đau mà “tôi” cũng cảm thấy thấm thía khi biết chính “Mẹ đã từng từ chối sự có mặt của con để giờ đây điều đó trở thành niềm mong ước thắt ruột. Giờ đây thì mẹ thấm thía được một điều quan trọng: Để có tình yêu thực sự, không thể sống theo ý muốn thuần túy của con người". [53]. Khiến cho tâm hồn, suy nghĩ “tôi” lạc đi, và cái sự kiện trọng đại muốn chào đón cuộc đời, giờ đây chẳng còn là niềm háo hức nữa. Sau những gì đã biết, đã phán xét về cõi đời, nó tin rằng có “một cô, cậu bạn đồng niên nữa của tôi không muốn làm người. Có thể đó là quyết định sáng suốt”.[53].
Rồi cũng đến thời điểm “Vào cái ngày cuối cùng đáng nhớ so với thời hạn tôi cần phải đưa ra quyết định có nên ra đời hay không.” với biết bao câu chuyện thật
khó tin của cuộc đời thì xuất hiện những âm thanh vẫy gọi như những bài thánh ca chào đón một hài đồng ra đời trên cỏ. Điều đó đã đưa đến cho tôi quyết định “tôi chấp nhận sống, còn bởi một sự thật ngàn lần khó tin hơn: Con người chẳng làm được gì hơn ngoài sự chuẩn bị đến nơi đến chốn. Còn biết bao người không có cơ hội này và có thể coi đây là bí mật cuối cùng mà vì thế tôi cần phải đến, thay vì bỏ đi.” [53].
Ở đây nhân vật cô đơn là bởi một mình đối diện với suy nghĩ, với những quyết định cùng những bí mật cuộc đời mà “Vĩnh viễn chẳng ai trong số những người đến cuộc đời trước tôi hiểu được bí mật này.” Quyết định cuối cùng của thai nhi chấp nhận đến với cuộc sống đồng nghĩa với việc thai nhi đã chủ động đương đầu với cuộc thách đấu dai dẳng và quyết liệt. Mà ở đó, cái thiện, cái ác, cái chết luôn ở trên bờ vực. Nhân vật thai nhi như một biểu tượng về một sự nghiệm sinh trong cõi người từ trong tiền kiếp, quá trình nhọc nhằn, gian khổ nhưng đầy hạnh phúc của sự sống. Nhân vật được kể với giọng khách quan lạnh lùng cái hiện thực nghiệt ngã và phi lý được tô đậm và rõ nét. Qua đó, gieo nỗi buồn hoang mang về kiếp người.
Đến với Luân hồi, người đọc sẽ thấy, không chỉ bản thân nhân vật mới mang trong mình nỗi cô đơn như một tiền định mà đó còn là nỗi cô đơn của dòng máu huyết thống, được di truyền từ đời này qua đời khác, “từ các cụ tổ tiên đến bố tôi đều cô đơn”[1, tr.201], một lời dự báo rằng thế hệ con cháu sau này cũng sẽ cô đơn. Và đến đời tôi cũng tự thấy “tôi rất cô đơn”, không thể tránh khỏi. Nỗi cô đơn ấy tự bản thể đã có, như thứ gen di truyền mà thế hệ trước trao lại cho thế hệ sau, nỗi cô đơn của con người đã mang tính dự báo, cô đơn là trạng thái tâm lý không thể tránh khỏi đối với mỗi con người.
Không chỉ được dự báo về một nỗi cô đơn có sẵn được di truyền lại, qua lời giới thiệu, có thể thấy, nỗi cô đơn của “tôi” càng không có điều kiện để thoát khỏi:
“Tôi sinh ra từ những cơn mưa. Vào một đêm sâu thẳm nào đó. Trong nỗi cô đơn khủng khiếp, cha tôi lang thang đi tìm một miền khô ráo. Ông đã nằm mơ thấy