cái sự đẩy suy nghĩ đi thế này!”. Sau đó, người đưa ra hai khái niệm “Bất nhiên” và “Kỳ nhiên” – “Không như vậy” và “Như vậy”. “Lòng ta rơi vào khoảng không đen tối” là hiện tượng người suy tư rơi vào khi bắt đầu từ sự
„biết‟. Nhưng nếu nói từ sự “thành” thì có thể tìm thấy “quy luật” nơi khe nhỏ xa vời vợi. Tiếp tục suy nghĩ để tìm về cội nguồn thì “cái „đại nghiệp‟ khiến cho „vật‟ thành „vật‟, lý trí thành lý trí ấy phải xa vợi đến bao nhiêu không kể”. SuUn đã nhận biết rất rò là trong quá trình tư duy của con người, con người sẽ gặp phải hiện tượng „rơi vào khoảng không đen tối‟ có nghĩa là không còn có thể phán đoán hay đưa ra kết luận được nữa. Thế nhưng người lại khuyến khích con người tiếp tục tư duy, đẩy thêm suy nghĩ đi sẽ tìm ra câu trả lời cho
„sự thành‟ của vật ở hiện tại. Và khi biết, cảm nhận cái sự hình thành ấy bắt nguồn từ đâu, trải qua những gì, cảm giác của sự khâm phục, kính nể sẽ tự nhiên xuất hiện. Câu trả lời cho câu hỏi “làm thế nào mà vật thành vật?” nằm ở ba chữ: thành - kính - tín. Có chân thành mới có kính trọng, từ đó mới sinh ra niềm tin. Ngược lại, có tin mới có tình, mới có kính. Quay trở lại vấn đề, nếu Thiên chủ là đối tượng được SuUn tin là „tồn tại điều hòa vạn vật‟ thì chắc chắn, việc điều hòa đó là cả một đại nghiệp đáng khâm phục và kính nể.
Cuối cùng là sự xuất hiện của “đấng tạo vật”. Nếu gắn và đẩy cội nguồn vạn vật tới một đối tượng nằm ngoài chúng ta mà SuUn Choi Jae U gọi là “đấng tạo vật”, mọi câu hỏi sẽ được giải đáp. Và tất cả thế giới ta thấy bây giờ, hiện tại là quá trình hay kết quả của một quá trình không có sự kết thúc. Đến đây, chúng ta có thể hiểu, cách trình bày về bất nhiên kỳ nhiên là cách SuUn Choi Jae U dẫn đường cho ta đến với “Đấng tạo vật”, để được tiếp xúc với “Thiên đạo”.
Đối với cuộc sống của con người thì không gì là tự có. Chính bản thân ta cũng là thành quả của bố mẹ ta. Gạo mua về cũng phải nấu thành cơm rồi mới ăn được. Công của con người nằm trong đó. Tình của con người nằm trong hành động đó. Vậy quay lại để tìm về khởi nguồn của vật, chúng ta sẽ hiểu cái
“đại nghiệp” khiến “vật” thành “vật” ấy phải xuất phát từ một nơi rất xa không kể xiết. Và “nếu gắn mọi sự vào đấng tạo vật thì tất cả sẽ là như vậy, như thế”. Người phương Đông quen với lối tư duy tổng hợp, quy nạp – thống nhất về một mối. Thông qua “bất nhiên kỳ nhiên”, SuUn đưa ra cách tư duy phân tích đầy mới mẻ. Không chỉ vậy, người còn đưa ra cách thức tư duy theo hệ thống, quy trình bằng việc đẩy suy nghĩ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “tại sao vật thành vật”. Hơn nữa, SuUn đã đi thêm một bước trong quá trình tư duy, đó là kết hợp hai lối tư duy tổng hợp và phân tích của phương Đông và phương Tây thông qua tồn tại “thần Trời”. Việc chứng minh “thần Trời” tồn tại trong bản thể mỗi con người cho thấy lối tư duy tổng hợp của phương Đông. Còn tư duy phân tích được giới thiệu rò nhất trong phần “bất nhiên kỳ nhiên”.
2.4. Tư tưởng Donghak mang đậm tính chất văn hóa Korea
2.4.1. Tư tưởng Donghak tiếp thu và là sản phẩm tinh thần đặc sắc của nền văn hóa Joseon
Do vị trí địa lý, Joseon chịu ảnh hưởng của nền văn hóa của người khổng lồ Trung Hoa. Và cũng trong chừng ấy năm tồn tại của người Hàn, cũng như người Việt, việc tìm ra những phương pháp để không bị đồng hóa và hòa tan vào nền văn hóa láng giềng khổng lồ chỉ trực nuốt chửng mình là bài toán đặt ra cho sự sinh tồn của dân tộc. Đầu tiên là những gì thể hiện bề ngoài như trang phục, nhà ở, ẩm thực, nghi lễ, lời ăn tiếng nói..., tiếp đó là những gì thể hiện bên trong như suy nghĩ, tình cảm của từng dân tộc.
Joseon là quốc gia đã nỗ lực tạo nên một nền văn hóa độc lập, độc đáo, khác và bình đẳng với các nền văn hóa khác, ít nhất là với Trung Hoa và hơn nữa là với các dân tộc khác. Trong suốt 500 năm tồn tại, quốc gia có tên Joseon để lại nhiều thành quả văn hóa xuất sắc dựa trên nền triết học Nho Giáo và sâu hơn nữa là học thuyết âm dương ngũ hành và dịch học. Có thể sẽ có ý kiến cho rằng, Nho Giáo vốn là của Trung Quốc, và như vậy thì ngay từ cái gốc đã là của Trung Quốc. Có ba kiến giải cho vấn đề này. Thứ nhất, chữ
Có thể bạn quan tâm!
- Hai Tác Phẩm Chính Của Tư Tưởng Donghak
- Nội Dungcơ Bản Của Tư Tưởng Donghak
- Si Cheon Ju ( 시천주 , Thị Thiên Chủ)
- Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó ở Triều Tiên nửa cuối thế kỷ XIX - 10
- Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó ở Triều Tiên nửa cuối thế kỷ XIX - 11
- Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó ở Triều Tiên nửa cuối thế kỷ XIX - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
“Trung hoa” xưa và nay có sự khác nhau. Thứ hai, việc tiếp thu tư tưởng Nho giáo là người Hàn chứ không phải người Hán nên trong quá trình tiếp thu như vậy, Nho giáo trong con mắt của người Hàn khác với Nho giáo trong con mắt của người Hán. Thứ ba có ý kiến cho rằng, chính thuyết Dịch học là do tộc
người Đông Di (동이족) sáng tạo ra chứ không phải là sản phẩm sáng tạo của
người Hán. Bởi JeongYok (정역, Chính dịch), cấp độ phát triển mới của Kinh dịch do người Hàn tìm ra. Ngay khi đọc “Đông Kinh Đại Toàn” chúng ta cũng thấy SuUn kết nối các nội dung về Nho giáo, về Dịch học thành một chuỗi, từ thời thượng cổ tới lúc bấy giờ. Luận văn này không tập trung vào việc phân tích chủ nhân thực sự của Dịch học và thuyết âm dương ngũ hành là ai mà nhìn nhận tư tưởng Donghak từ nền tảng văn hóa của quốc gia có tên Joseon mà thôi. Nói tới văn hóa Joseon điều đầu tiên phải nhắc tới chính là sáng tạo mang tính cách mạng - chữ viết – Bảng chữ cái “Huấn dân chính âm” do vua
Se Jong đại đế cùng các hạ thần của mình tạo ra năm 1443. Vua SeJong đại đế cũng đã sử dụng lý thuyết về âm dương ngũ hành, lý thuyết về tam tài làm nguyên lý, và giải thích cho bảng chữ cái mới này. “Huấn dân chính âm” cũng là bảng chữ cái do con người tạo ra có sự rành mạch về nguồn gốc và nguyên lý.
Học thuyết âm dương ngũ hành cũng được áp dụng như lý thuyết vẽ tranh của các họa sỹ thời đại Joseon. Các bức bình phong dành cho vua triều Joseon đều mang đậm màu sắc của thuyết âm dương ngũ hành. Tấm bình phong “Nhật nguyệt ngũ bổng bình” là một ví dụ. Thuyết này còn được áp dụng trong kiến trúc xây dựng thành Seoul với bốn cửa ô và trung tâm thành theo thuyết âm dương ngũ hành. Cửa phía Đông có tên là “Hưng nhân chi ngọ”, phía Nam có tên là cửa “Sùng lễ môn”, cửa phía Tây là cửa “Đôn nghĩa môn” và cửa phía Bắc có tên là “Túc Thanh môn”, ở giữa là “Phổ tin các”.
Đến nay, chúng ta vẫn nhận thấy dấu vết của thuyết âm dương ngũ hành trong chính các biểu tượng quốc gia của Hàn Quốc. Lý thuyết về âm dương
ngũ hành cũng thể hiện rò trên cờ thái cực của Hàn Quốc. Và cũng chỉ còn Hàn Quốc là quốc gia duy nhất ở châu Á sử dụng cờ thái cực biểu trưng cho lý thuyết Dịch học. Cờ thái cực của Hàn Quốc được làm vào năm 1884 với hình tượng thái cực âm dương ở giữa và bốn quẻ chính trong Dịch học.
Tác phẩm “Đông Kinh Đại Toàn” được viết bằng chữ Hán với lối viết logic và chặt chẽ, chứng tỏ sự thâm hiểu về văn hóa chữ Hán vốn đã luôn và đang là văn hóa của tầng lớp thượng lưu, tầng lớp thống trị trong xã hội lúc bấy giờ. Việc lựa chọn các khái niệm Nho học chứ không phải các khái niệm Phật học trong “Đông Kinh Đại Toàn” của SuUn cũng cho thấy hy vọng vào sức mạnh thay đổi thời vận từ giới học giả Nho giáo. Trong các nội dung của cuốn sách này, chúng ta thấy người viết: “Từ lâu trên trời đã có chín sao, ứng với nó là chín chủ, dưới đất có tám phương, ứng với tám quẻ dịch. Vì vậy mà có số chỉ ra quy luật đầy vơi nhưng lại không có quy luật biến hóa và thay đổi cho sự động, tĩnh. Âm và dương cùng hòa hợp với nhau và vạn vật thế gian được sinh ra giữa đó, và chỉ có con người là tồn tại thần bí nhất” [18, 31]. “Vì vậy mà quy luật của tam tài được định ra, số của ngũ hành cũng xuất hiện. Ngũ hành là gì? Trời trở thành sợi dây nối lưới của ngũ hành, đất trở thành nền của ngũ hành, con người trở thành khí vận của ngũ hành. Số của tam tài thiên
– địa – nhân có thể được giải thích theo cách này” [18 - 34, 35].
Các nội dung này cho ta thấy sự thấu hiểu kiến thức của SuUn cùng nền học thuật thống trị lúc bấy giờ. Dường như cả phần nội dung về “Luận học văn” là cuốn giáo trình rút gọn về văn minh Đông Á trong đó thuyết âm dương ngũ hành là một chương không thể thiếu trong cuốn giáo trình đó.
Trong “Giáo huấn ca” của cuốn “Long Đàm Di Từ” người cũng viết:
“Hỡi những người con, người cháu của ta, hãy cung kính nhận lấy chữ của ta. Các con cũng được sinh ra trên đời này dựa vào nguyên lý của ngũ hành, lấy “tam cương” làm pháp đạo quan trọng của đời sống, giữ trọn “ngũ luân” đến nay hai mươi tuổi rồi cũng đến tuổi thành niên” [29, 12]. Không những
vậy, SuUn cũng giải thích về tồn tại thần Trời: “Ta xem lại số trong dịch quẻ, thấy đi thấy lại quy luật cung kính trời ở ba thời” [18, 90]. Vậy là SuUn đã
„khơi lại‟ truyền thống „thờ trời‟ của người xưa bằng cách vừa định nghĩa, chứng minh bằng những kiến thức đương thời.
Những dẫn chứng trên cho thấy tư tưởng Nho giáo và Âm dương ngũ hành cùng Dịch học đã từng là hệ tư tưởng thống trị và chủ đạo trong suốt chiều dài lịch sử xã hội Joseon. Hệ tư tưởng này tồn tại và thấm sâu vào từng ngò ngách đời sống xã hội Joseon. SuUn Choi Jae U cũng sử dụng lý thuyết này để giải thích cho sự tồn tại của Thần Trời mà người đã đối thoại trong phần lớn các nội dung ở phần Bố Đức Văn.
2.4.2. “Thần Trời” trong quan niệm của cư dân bán đảo Korea
Trong các câu chuyện thần thoại của nhiều dân tộc trên thế giới, có sự xuất hiện của một vị thần tối cao – thần Trời. Như vậy tồn tại Thần Trời được các dân tộc tư duy và hình dung như thế nào?
Có lẽ trước khi hình thành một khái niệm Trời trừu tượng, con người thường thờ cúng những đối tượng có hình dạng, tồn tại xung quanh mình. Ở Ai Cập trước kia, trời là bản nguyên âm tính, là nguồn gốc của mọi sự hiển lộ. Vị nữ thần biểu trưng cho trời có tên là “Nout” với thân hình uốn cong như mái vòm. Nout được gọi là “mẹ của các thần linh và cả loài người”. Hình ảnh nàng được khắc trên rất nhiều quách; một chỉ thảo thư hiện lưu giữ ở bảo tàng Louvre, phát biểu thay cho người quá cố miêu tả nữ thần này như một người mẹ rất đỗi dịu hiền: Mẹ Nout của người đã tiếp đón người vào còi yên bình. Ngày nào Nàng cũng đặt hai cánh tay làm gối cho người. Nàng che chở cho người trong quan tài; Nàng bảo vệ người trong núi an táng; Nàng chăm sóc tuyệt vời cho thân xác của người; Nàng che chở cho mọi sự sống và bảo đảm sức khỏe toàn vẹn”. Như vậy trong quan niệm của người Ai Cập, “thần Trời” có tính nữ và có hình hài cụ thể. Không những vậy, thần Trời còn là người dẫn đường, chỉ lối cho những linh hồn bước sang thế giới bên kia”. [18, 956]
Chữ “Thiên chúa” trong đạo Thiên chúa được sách “Lịch sử đạo thiên chúa” của Jean – Baptiste Duroselle và Jean Marie Mayeur xuất bản năm 2004 viết như sau: “Từ „Thiên chúa‟ có thể được hiểu theo hai nghĩa chính. Thứ nhất, theo từ nguyên, nó có nghĩa là vạn năng, hoặc là phổ quát... Thứ hai nó chỉ những người Cơ đốc giáo thừa nhận quyền uy của Giáo hội do giám mục Roma, tức Giáo hoàng đứng đầu, để phân biệt họ với tất cả người Cơ đốc giáo không thừa nhận quyền uy của Giáo hội này” [12, 4]. Ở đây, theo định nghĩa thứ nhất, Thiên chúa không có hình thù cụ thể và đây là điểm giống với cách tư duy, hình dung về „thần Trời‟ của người Hàn. Chính vì vậy mà việc SuUn Choi Jae U và học thuyết của ông đã bị nghi ngờ là tà giáo, là tôn giáo giống tôn giáo của phương Tây và những kẻ định xâm lược bán đảo Hàn khi đó.
Đối với người Việt Nam, từ “Trời”, “Giời” được gọi bằng “ông Trời”, “ông Giời”. Vị thần “Trời” được kết nối với quan hệ gia đình. “Ông” là khái niệm chỉ người bố của bố. Ông thường là người không nghiêm khắc, thường che chở và thỏa mãn các ý muốn của “cháu” hơn so với bố. Chúng ta không có câu chuyện thần thoại trực tiếp về thần Trời, thông thường, trời thường xuất hiện như đối tượng trên cùng – cao nhất tạo ra hay là đấng quản lý, giao việc cho các vị thần khác. “Thần mưa là vị thần được Ngọc Hoàng ủy thác trông nom về mưa ở hạ giới” [8, 88]. Hay tồn tại trời là đối tượng thấu hiểu và lắng nghe sự việc ở hạ giới, không phân biệt đối xử con người với muôn vật như trong “Truyện Cóc kiện trời”: “Sau khi biết truyện thần Mưa bỏ nhiệm vụ, Ngọc Hoàng bèn giục thần Mưa về hạ giới hút nước phun cho nhân gian. Ngọc Hoàng lại dặn rằng khi cần mưa “cậu Cóc” cứ kêu là sẽ có mưa ngay” [8, 95]. Thế nhưng trong câu: “Của Trời Trời lại lấy đi” hay “Trời sinh voi trời sinh cỏ” cho thấy sự tồn tại độc lập, tách biệt của trời và con người trong tư duy người Việt. Trong các câu chuyện, câu nói về thần Trời, con người Việt Nam thường được đặt ngang bằng với giới tự nhiên, thần Trời thường xuất hiện với tư cách là vị thần quản lý các vị thần thiên nhiên khác, định đoạt sự đúng sai,
bất công. Chính vì vậy mà yếu tố chinh phục tự nhiên không được thể hiện một cách mãnh liệt; nỗ lực, công sức của con người vẫn chưa được nhấn mạnh như yếu tố quyết định của tồn tại.
Còn “Trời” trong tâm niệm của người Hàn là gì? Chữ “Trời” trong tiếng Hàn là “님” hay “홀놀님”. Từ 1912 sau khi quy định lại cách viết cho
trường học, người ta đã bỏ đi âm „•‟ và trở thành “하나님”. Chữ “하나” cũng
có nghĩa là “một” trong tiếng Hàn. Còn chữ “님” là từ chỉ sự kính trọng, gắn
vào tên gọi của đối tượng mà người nói hướng tới. Trong “Thần Thoại DanGun” – thần thoại kiến quốc của dân tộc Hàn, nhân vật thần Trời được gọi
tên là Hwan In. Hwan In là „bố‟ của người con thứ có tên là Hwan Ung. “Hwan In là trời. Vị thần Trời có một người con thứ tên là Hwan Ung. Hwan Ung có ý muốn đi xuống vùng đất của con người... Người bố biết được ý muốn của người con thứ này” [17, 22]. Với người Hàn, Trời là tồn tại tuyệt đối, chỉ có một và duy nhất. Thông qua câu chuyện này, chúng ta cũng hiểu hơn về cách thức tư duy và tính cách của người Hàn. Tinh thần khai phá, chinh phục của dân tộc Hàn cũng được thể hiện rò ràng, ý thức đề cao con người thông qua việc tập trung vào miêu tả mục đích hành động của con người. Cũng giống với việc thờ Vua Hùng ở Việt Nam, người Hàn cũng thờ DanGun như thủy tổ của dân tộc mình.
Tới “Đông Kinh Đại Toàn” của SuUn Choi Jae U, chúng ta thấy quan niệm về thần thánh của SuUn có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, vị thần Trời mà SuUn Choi Jae U nhắc tới được người nhìn qua lăng kính nhân cách hóa: thần Trời biết nói, tự xưng trong cuộc đối thoại với SuUn: “Con đừng sợ, con đừng sợ. Con người gọi ta là Thượng đế, con không nhận ra ta sao?” [18, 18], thần Trời than về chuyện con người không biết tới công đức của người “ta làm mãi mà chẳng có công nên cho con sinh ra thế giới này để dạy con người thế giới bằng pháp này” [18, 18]. Rồi thần Trời là “Thiên chủ” là đối tượng điều hòa vạn vật trên thế gian này: “Từ ngày xửa ngày xưa bốn mùa không thay đổi.
Thời gian trôi trong thế giới này hằng không đổi. Đây cũng chính là dấu tích điều hòa của Trời được thể hiện dưới hạ giới” [18, 09], nhưng rồi thần Trời cũng nói: “Những người bình thường chưa biết nghĩ là phải cảm tạ mưa rơi, sương đọng, chỉ biết đó là cái tự vận động mà thành, không cần chút nỗ lực nào cả” [8, 11]. Ở đây chúng ta thấy sự tách biệt, không có mối liên hệ giữa tồn tại thần Trời và SuUn Choi Jae U. Nhưng câu nói “ta cho con sinh ra thế giới này” có cùng môtíp với thần thoại DanGun. Thứ hai là việc kiến thiết nên xã hội lý tưởng trong thần thoại DanGun của người Hàn cũng xuất hiện trong Donghak. Nếu như trong thần thoại DanGun, người con thứ muốn xuống hạ giới để xây dựng, cai quản vùng đất dưới hạ giới... thì trong Donghak, „ta sinh con ra thế giới này‟ là „để con dạy con người thế giới này bằng pháp‟ – cũng là yếu tố mang tính chất chinh phục, kiến thiết.
Tiếp đó, là không gian tồn tại của “thần Trời”: “Con người biết Trời biết đất, chứ sao biết nổi quỷ thần. Quỷ thần cũng là ta”. Như vậy thần Trời mà SuUn Choi Jae U gặp là tồn tại toàn năng, là đấng điều hòa vạn sự, và cũng là đấng có mặt ở khắp mọi chốn mọi nơi. Thần Trời còn tồn tại cả ở trong cả tấm lòng của con người - “Tấm lòng ta cũng là tấm lòng con”. Bắt đầu từ đây, thần Trời không còn là đối tượng ở ngoài, độc lập với tồn tại con người nữa mà vì
„có mặt ở khắp nơi‟ nên không có lý nào thần Trời không tồn tại trong chính tấm lòng của con người. Ở đây chúng ta gặp sự đồng nhất giữa con người và Trời, nhưng không thể đồng nhất nhận định con người là Trời được mà chỉ có thể nói rằng – Trời là con người, Trời có trong mỗi con người. Một đặc điểm nữa về thần Trời được SuUn luận trong phần Luận học văn như sau: “Bởi Trời không phân biệt đâu là thiện ác” [18, 69]. Ở đây chúng ta bắt gặp một quan niệm về một vị thần Trời quảng đại, hiền từ. Yếu tố này lại giống với việc “người bố biết được ý muốn của người con thứ... cho phép người con đi xuống thế giới loài người”, hành động chứng tỏ sự quan tâm và yên thương „con cái‟ đến vô cùng của “thần Trời”. Điều này lý giải tại sao SuUn ví quan hệ giữa