Si Cheon Ju ( 시천주 , Thị Thiên Chủ)

cách mà SuUn sử dụng để gọi tồn tại mà người được gặp. Vậy trong nhận định của SuUn, Thiên chủ là ai? Theo định nghĩa của SuUn thì „chủ‟ có nghĩa là

„cái nói tới sự tôn quý mà đối xử như cha mẹ mình‟ [18, 56]. Vậy “Thiên chủ” là đối tượng mà ta phải tôn kính và đối xử như với cha mẹ mình. Mở đầu Luận học văn, người nói: “Cái được gọi là đạo của trời có vẻ như không có hình dạng nhưng có dấu tích”. Và SuUn còn nhận định tiếp về Thiên chủ: “Từ ngày xửa ngày xưa bốn mùa không đổi, thời gian trôi trong thế giới này hằng không đổi. Đây chính là dấu tích điều hòa của “Thiên chủ” được thể hiện dưới hạ giới” [18, 9]. Như vậy có thể thấy, trong nhận định của SuUn về thần Trời thì Thiên chủ rò ràng là một vị làm công việc „điều hòa‟ vạn vật. Và công việc điều hòa đó không hề đơn giản mà nó cần cả một công sự nỗ lực không kết thúc. Nhưng bởi „đời sống của con người ngắn ngủi nên không biết được cái cuối cùng đó‟ mà thành ra vô ơn như SuUn đã phê phán: “Những người bình thường chưa biết nghĩ là phải cảm tạ mưa rơi, sương đọng, chỉ biết đó là cái tự vận động mà thành, không cần chút nỗ lực nào cả” [18, 11]. “... Đời sống của con người ngắn ngủi như sương sớm trên cành, chẳng thể nào biết được chính là ân huệ của Trời, cũng chính là dấu hiệu của hóa công” [18, 36]. Trong câu nói trên, chữ „ân huệ‟ cho thấy SuUn tôn kính „nỗ lực‟, „sự điều hòa‟ của thần Trời, không những vậy SuUn còn phê phán sự „không biết ơn‟ của con người trước Thiên chủ. Và „chỉ khi con người đối diện với cái chết, con người mới tìm tới Thiên chủ‟. Bởi con người bất lực với cái chết, con người không biết về cái chết. Và khi không biết gì, thì điều duy nhất và cuối cùng có thể làm chính là cầu nguyện.

Cách thức tư duy “thần Trời” là vị thần điều hòa vạn vật, không trông thấy nhưng có dấu tích, “ta sinh con ra thế giới này để dạy con người” cho ta liên tưởng tới cách thức tư duy trong thần thoại DanGun của người Hàn. Trong thần thoại DanGun, HwanUng là người con thứ được HwanIn – thần Trời cho phép xuống hạ giới để lập nghiệp. Còn trong Donghak, SuUn được vị thần

Trời giao cho nhiệm vụ “chữa bệnh, giáo huấn cho con người”. Đây là một trong những yếu tố dẫn tới nhận định rằng Donghak là học thuyết tiếp nối tiến trình lịch sử tư tưởng truyền thống của dân tộc Hàn từ khi mới lập nên nhà nước.

SuUn cũng đã viết lại những đặc điểm mà mình nhận định về Thiên chủ trong những lần đối thoại với các học giả khác: “Bởi người không chọn lựa đâu là thiện ác” [18, 69]. SuUn cũng cho rằng “Mệnh vốn do Trời giữ và việc giáng vạn dân xưa kia là do thánh nhân tìm ra”. Đến nay chúng ta vẫn chưa thể biết cuộc sống sau cái chết. Chữ “thánh nhân” có thể hiểu như khái niệm “trí thức” ngày nay. SuUn cũng kể lại rất rò ràng những gì người được trao. Trong Bố đức văn, người ghi lại lời Thần Trời tuyên bố: “ta có linh phù ở đây, nếu gọi tên ra thì nó là thuốc tiên, còn hình dạng thì vừa là thái cực, vừa là cùng cùng. Con nhận lấy linh phù để chữa bệnh cho con người, nhận lấy chú văn để dạy cho con người” [18, 18]. Thần Trời tiếp tục: „Ta trao cho con đạo vô cùng vô tận, con mài giũa nó rồi mang ra giáo dưỡng thiên hạ. Ta viết ra lời dạy, tạo ra pháp mới để con mở đạo‟ [18, 42]. Còn một đặc điểm nữa về Thiên đạo do Thiên chủ nói: “Đạo của ta là vô vi lý hóa. Nếu giữ tấm lòng ấy, làm cho khí vận ngay thẳng, theo tính phẩm ấy, nhận lời dạy ấy thì mọi sự sẽ tuôn ra từ sự tự nhiên” [18, 50].

Tiếp theo là những cảm nhận của SuUn về Thiên đạo: Thái độ đầu tiên của SuUn chính là việc khẳng định Thiên đạo không phải giống mà là một với đạo của phương Tây, nhưng mặt khác, người cũng khẳng định về sự khác nhau giữa học thuật của phương Đông và phương Tây. Không những vậy SuUn còn phê phán chính những điểm yếu của học thuật về Thần Trời của phương Tây: “Tây học có ý cầu khấn nhiều chứ thực chất thì không có”. Và người cũng nói về Donghak : “người tu hành đạo này có vẻ như trống rỗng mà thực hành lại có, người chỉ nghe thôi thì có vẻ như có thực hành mà hóa ra rỗng tuếch”. Kết hợp với đặc điểm này là sự giải thích “Thiên đạo” theo Nho giáo:

“Nguyên hậu lợi trinh là đạo luôn như vậy của trời”. SuUn bắt đầu bằng những điều không thay đổi trong vô vàn cái thay đổi. „Cái như vậy‟ chính là Thiên đạo. Dấu vết của Thiên đạo chính là „nguyên hậu lợi trinh‟. Ứng với nó là việc của con người: xưa là “nhân nghĩa lễ trí”, nay là “thụ tâm chính khí”. SuUn nói rằng mình chỉ san định lại “thụ tâm chính khí” là gì mà thôi. Hẳn là SuUn đã lường trước tới khả năng con người dễ bị mê hoặc và bị làm cho mờ mắt bởi nhiều thứ trong đời sống của con người. Người khuyên “việc của con người là nắm bắt được cái lòi giữa của sự việc” bằng “thị Thiên chủ”, bằng “thụ tâm chính khí” và bằng “bất nhiên kỳ nhiên”. Nếu cần chỗ dựa, con người nên dựa vào Thiên chủ, mà Thiên chủ lại tồn tại trong chính bản thân mỗi con người. Như vậy là con người thị Thiên chủ được đặt ở vị trí tự tin vào bản thân mình, tự dựa vào bản thân mình và vào tồn tại Thần Trời bên trong mình. Nhưng trong quá trình nhận thức, con người mắc phải không biết bao nhiêu ngò cụt, khoảng trống, sự hư vô, hay bức tường ngăn kiên cố. Khi đó điều có thể làm chính là “thụ tâm chính khí”, để lại một lần nữa củng cố lòng tin. Và cuối cùng “bất nhiên kỳ nhiên” để tư duy đúng mạch, tìm ra cái cốt lòi, cái cội nguồn của sự vật.

Cuối cùng SuUn viết: “Nhìn một cách toàn diện thì đạo này là đạo tin thì thành... Sau khi định tâm, lời nói không tin cũng thành tin, thì ấy là lòng tin. Cứ luyện theo cách này thì sẽ thành. Ôi hỡi tình và tín. Chẳng phải cái gì xa xôi. Người nói có tin rồi mới thành ra tình được” [18, 101]. Xét trong lịch sử, phần nhiều các sản phẩm mà con người được hưởng xuất phát từ „tình, kính, tín‟. Việc tạo ra sản phẩm nào đó nhiều khi xuất phát từ tình yêu và lòng kính trọng. Khổng Tử và học thuyết Nho giáo cũng xuất hiện trong tình cảnh thiên hạ chém giết lẫn nhau, gây cảnh loạn lạc và khốn khổ cho dân chúng. Động cơ sáng tạo bảng chữ cái “Huấn dân chính âm” của SeJong đại đế không đơn giản xuất phát từ sự tự tôn dân tộc, từ động lực xây dựng nền văn hóa với bản sắc riêng mà có cả tình yêu đối với dân chúng còn đang bị mù chữ và phải sử dụng

chữ Hán để biểu đạt tình cảm, suy nghĩ của mình. Hồ Chí Minh nhất quyết cùng cả dân tộc đấu tranh tới cùng để dành được độc lập không gì khác ngoài tình yêu dân tộc. Thế nhưng nếu không có lòng kính trọng, sự tôn trọng đối với người dân thì Hồ Chí Minh đã hoàn toàn có thể trở thành một nhà lãnh đạo độc tài hay một kẻ bán nước. Cũng như SeJong đại đế hoàn toàn có thể không bao giờ ban bố „Huấn dân chính âm‟ nếu không tin, không kính trọng dân chúng của mình. Người ta dựng tương Phật cũng phần nhiều vì sự tôn kính và tình yêu đối với Phật. Chính vì vậy, tư duy ngược dòng để tìm về nguồn cội, „tình, kính, tín‟ chính là cách thức tư duy để hiểu về “cái đại nghiệp khiến cho „vật‟ thành „vật‟, lý trí thành lý trí ấy phải xa vợi biết bao” như SuUn viết trong “Bất nhiên kỳ nhiên”.

Như vậy, với cách thức tư duy gắn việc điều hòa vạn vật trên thế giới này là công việc của Thiên chủ thì đại nghiệp của Thiên chủ chắc chắn sẽ là vô cùng vô tận, và ân huệ của Thiên chủ sẽ là lớn lao vô cùng. Thế nhưng con người, trong quan hệ giữa mình và đối tượng khác, đối tượng mà con người nghĩ tới và kính trọng đầu tiên, cũng là không thể chối bỏ chính là cha mẹ mình – người sinh ra mình. Chính vì vậy mà trong tư tưởng của SuUn, người ví sự tôn kính Thiên chủ như sự tôn kính cha mẹ. Điều này được thể hiện trong mệnh đề “thị Thiên chủ”. “Thị Thiên chủ” cũng là cách thức để tu hành đạo như SuUn nói.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Xuất phát từ cách thức tư duy phân tích, người phương Tây thường phân tách thế giới thần thánh và thần thánh với thế giới con người và con người. Vì vậy mà người phương Tây tin vào một phán quyết cuối cùng để có thể được lên thiên đàng hay xuống địa ngục. Nhưng các tư tưởng phương Đông nói chung và tư tưởng Donghak nói riêng lại có đặc điểm điều hòa, dung nạp và nhất nguyên. Chính vì vậy mà các tư tưởng phương Đông thường chủ trương xây dựng nên thế giới thần thánh ngay trong hiện thực, không chờ đợi một sự phán quyết cuối cùng. Đặc điểm này chúng ta gặp trong tư tưởng Nho giáo, và

trong cả Donghak. Trong tư tưởng Donghak, chúng ta thấy được sự khác biệt này. Nếu như Thiên chúa giáo đặt tồn tại “Thiên chúa” như một đấng tối cao, đấng toàn năng - độc lập hoàn toàn với tồn tại con người, con người phải đợi tới khi qua thế giới bên kia để “thưởng thức” “thiên đàng” hay “hứng chịu” “địa ngục”. Trong tư tưởng Donghak, nơi nào có con người „thị Thiên chủ‟ thì nơi đó chính là thế giới thiên đàng. Một lần nữa, SuUn lại thể hiện tính chất vô cùng hiện thực trong tư tưởng của mình. Việc xây dựng một xã hội “thị Thiên chủ” được SuUn đặt vào tay của con người.

Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Donghak và ảnh hưởng của nó ở Triều Tiên nửa cuối thế kỷ XIX - 8

2.3.2. Si Cheon Ju (시천주, Thị Thiên chủ)

Donghak là học thuyết xuất phát từ phương Đông nên các đặc điểm của tư tưởng này chắc chắn có tính chất của một tư tưởng phương Đông. Đặc điểm đầu tiên là „phi bạo lực‟. Phật giáo mặc dù là một tư tưởng cách mạng vào thời điểm đương thời, bởi đức Phật đã làm hoán đổi hoàn toàn chế độ đẳng cấp tồn tại trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ nhưng Phật giáo cũng là tôn giáo cấm sát sinh triệt để. Khổng Tử sau khi hình thành nên học thuyết của mình quyết định lựa chọn con đường „thuyết phục‟ các minh quân thay vì cùng với các đệ tử của mình tạo lên một đội quân hùng mạnh đi chinh phạt và chấm dứt thời buổi loạn lạc, xây dựng xã hội „đại đồng‟ lý tưởng mà ông luôn mong muốn. SuUn và tư tưởng Donghak cũng mang các đặc trưng của truyền thống đó. Việc các đệ tử tiếp nhận tư tưởng này sau đó tạo ra cuộc cách mạng nông dân Donghak là một mặt khác của vấn đề nhưng trong Donghak, SuUn cũng đã lựa chọn cách thuyết phục, đưa ra một cách thức để tu luyện, mài đạo cho người tu luyện. Điểm mấu chốt của đặc điểm này là khái niệm “thị Thiên chủ”. Đây cũng là điểm mấu chốt mà SuUn nhấn mạnh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và con người trong xã hội.

Khái niệm “thị Thiên chủ” được giải thích trong tư tưởng Donghak như

sau:

““Thị” có nghĩa là bên trong có sự linh thiêng, bên ngoài có “khí hóa” mỗi

con người thế giới này không thể chia sẻ cho ai cả mà giữ cho riêng mình. “Chủ” là cái nói tới sự tôn quý mà đối xử như cha mẹ mình” [18, 56].

Trong câu nói trên, chúng ta thấy SuUn tập trung vào thái độ của con người đối với đối tượng “thần Trời”. SuUn mô tả trạng thái “thị Thiên chủ” và cho rằng đó là cảm giác, trạng thái và là công việc mà mỗi con người cá nhân phải tự làm lấy cho mình. Tiếp đó là thái độ với “Thiên” khi đặt là “chủ”. SuUn so sánh quan hệ giữa con người và “Thiên chủ” như quan hệ “tôn kính” mà con người dành cho cha mẹ mình. Đối với mỗi cá nhân, một trong những quan hệ không thể chối bỏ, đặc biệt là với con người châu Á, chính là quan hệ giữa con cái và cha mẹ. Bởi phủ nhận cha mẹ - người sinh ra ta chính là phủ nhận chính bản thân mình. Bỏ hết tất cả các quan hệ khác của Nho giáo, cũng không giống với các quan hệ nhân – quả trong Phật giáo, SuUn lựa chọn đối tượng “thần Trời” tồn tại trong chính bản thân mỗi con người làm „chủ‟, và lựa chọn cách xử thế “tôn kính như cha mẹ”. Đây là điểm khác biệt với tư tưởng về Thiên chúa của phương Tây. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong văn hóa phương Đông được đề cập nhiều và sâu sắc hơn so với phương Tây. Chính vì vậy mà việc thờ Chúa mà không cho phép phụng thờ tổ tiên của Thiên chúa giáo phương Tây là đặc điểm không phù hợp với văn hóa phương Đông. Bên cạch đó, cách kết hợp việc thờ “Thiên chủ” như tình cảm đối với cha mẹ của SuUn đã hòa đồng được quan hệ huyết thống và quan hệ với đối tượng khác ngoài gia đình hay máu mủ của mình. Đặc biệt là trong cảnh „mỗi người một tâm tính nên lúc nào cũng lo âu bất ổn, không biết đặt tâm mình vào đâu‟, như SuUn ghi lại trong “Long Đàm Di Từ”: „Chúng ta nay cũng “ích tại cùng cùng”, nói là phải giải ra mà những người bán quan bán chức một mặt lòng cũng cùng cùng. Người giàu có thóc cốc đầy nhà lòng cũng cùng cùng, người đi lang thang ăn xin đoạn bữa cũng cùng cùng, mà người hành khất cũng tìm tới thôn cùng cùng hay đi vào núi sâu, hay nhập Tây học, mỗi người một lòng mà ai cũng nói mình đúng người sai‟[29, 137].

Như vậy là thông qua câu nói trên, chúng ta cũng có thể hiểu Donghak của SuUn không đơn giản chỉ là vũ khí chống lại Tây học, Donghak còn là học thuyết muốn giải quyết bài toán lịch sử mà Joseon phải đối mặt. Với việc khơi lại “Thiên chủ”, thờ tụng “Thiên chủ” trong lòng, Donghak trở thành điểm tựa cho tinh thần của những người dân trên bán đảo Hàn.

Mặt khác, với việc khơi lại cội nguồn “Thiên chủ” trong văn hóa truyền thống và yêu cầu “thị Thiên chủ”, SuUn đã thực hiện việc xóa bỏ chế độ đẳng cấp trong xã hội Joseon lúc bấy giờ. Việc “thị Thiên chủ” trong mình khiến một người nông dân bình thường, một người nô dịch trở nên bình đẳng với các tầng lớp trên của xã hội như vua hay quan lại. “Thị Thiên chủ” của SuUn như vậy là tư tưởng „hạ bệ‟ cả hệ thống nhà nước phong kiến với vương quyền, thần quyền. Việc kết hợp „thần Trời‟ với „Thiên tử‟ trong quá trình hình thành nên nhà nước phong kiến nay đã bị chặn đứng lại. Bởi thần Trời tồn tại trong chính mỗi con người và bởi con người thờ thần Trời nên mỗi cá nhân vừa là bản thân mình, vừa là một tồn tại thần Trời, như vậy thì không ai không phải là

„Thiên tử‟. Đối với người dân lúc bấy giờ thì đây rò ràng là một suy nghĩ mang tính chất đột phá. Không những vậy, với ý tưởng sáng tạo về Thiên chủ, SuUn Choi Jae U đã chính thức giải phóng con người Hàn Quốc thành một người bình đẳng với người phương Tây không chỉ về mặt hình thức mà còn cả về mặt tinh thần. Tư tưởng này trở thành vũ khí trong cuộc đấu tranh với sự xâm nhập ồ ạt của tư tưởng, văn hóa phương Tây vào bán đảo Hàn.

SuUn trả lời học trò của mình như thế này:

Hỏi: Có điểm gì khác so với đạo của phương Tây không ạ?

Trả lời: Tương tự với học thuật của phương Tây nhưng có điểm khác. Tây học có nghĩa cầu khấn nhiều chứ thực chất thì không. Nhưng vận là một. Đạo thì giống còn quy luật thì khác.

Với câu hỏi đáp trên, SuUn Choi Jae U không chỉ đặt dân tộc Hàn lên ngang bằng với các dân tộc phương Tây mà còn tạo ra cả mối liên hệ, sự đồng

nhất của cả phương Đông và phương Tây. Không những vậy, khi “thị Thiên chủ”, con người không còn hão huyền về một kết cục nơi thiên đường hay địa ngục bởi địa ngục hay thiên đường, ma quỷ hay thần thánh đều là các dạng thức khác nhau của thần Trời. Con người thị Thiên chủ của SuUn Choi Jae U được dồn tới hành động xây dựng xã hội lý tưởng mà các nhà tư tưởng từ xưa đến nay vẫn gắng công tạo dựng. Con người cũng không còn “nhân danh chúa” để có thể hành động một cách hồ đồ dưới danh nghĩa vị “thần Trời” tối cao bởi trong chính mỗi con người đều có thần Trời và quan trọng hơn là không thể truyền cho ai khác. Và SuUn Choi Jae U chứng minh cho sự tồn tại của “thần Trời” bằng lý luận về “bất nhiên kỳ nhiên”.

2.3.3. BulyonGiyon (불연기연, Bất nhiên kỳ nhiên)

Bất nhiên kỳ nhiên dường như là cách thức tư duy mà SuUn Choi Jae U dẫn giải trong cuốn “Đông Kinh Đại Toàn”. Sau khi đã trình bày các lý giải về “đạo”, SuUn đưa ra một cách thức tư duy mới, có lẽ là khá khác lạ với cách thức tư duy truyền thống của các Nho sỹ lúc bấy giờ. Xét ở một góc độ nào đó, “bất nhiên kỳ nhiên” là con đường tư duy chứng minh sự tồn tại của “Thiên chủ” và là cách thức “nắm bắt cái cối lòi của vấn đề”.

Bắt đầu bằng câu hỏi “Ta là ai?”, SuUn viết: “Nếu ta nghĩ về ta thì thấy bố mẹ ta ở đây, còn nghĩ về sau này thì thấy con cháu ta ở đằng sau kia. Nghĩ về thế giới đang đến thì quy luật không có gì khác ngoài “ta nghĩ về ta” mà nếu nghĩ về những gì đã qua thì khó có thể phân biệt được “người sao lại thành người”. Ở đây chúng ta bắt gặp cách thức tư duy theo dòng thời gian, lấy ta làm trung tâm để nhìn về quá khứ và nhìn về tương lai. Không có một câu trả lời nào cho câu hỏi “ta là ai” mà điều chính xác duy nhất là “ta là người đang nghĩ về câu hỏi đó”. Cách tư duy này cho ta liên tưởng tới cách thức tư duy “tôi tư duy nghĩa là tôi tồn tại” của Descartes.

Với câu hỏi “làm thế nào?” và “tại sao?”, người suy tư luôn bị dừng lại bởi sự hạn chế của thông tin, tầm hiểu biết, hay kinh nghiệm. SuUn ca thán: “Ôi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/06/2022