Hoàn Thiện Các Quy Định Pháp Luật Nhằm Xử Lý Các Vi Phạm Của Doanh Nghiệp

lệch với thiết kế gốc mặc dù đã thực hiện tất cả những biện pháp cẩn trọng trong quá trình sản xuất và marketing); lỗi thiết kế (khi thiệt hại do sản phẩm gây ra có thể tránh được hoặc giảm nhẹ bằng một mẫu thiết kế hợp lý khác); và lỗi cảnh báo không đầy đủ (khi thiệt hại nhẽ ra có thể tránh hoặc giảm nhẹ bằng việc sử dụng những chỉ dẫn hay cảnh báo phù hợp). Mặc dù dây là những cách thông thường nhất để quyết định có hay không khuyết tật sản phẩm, song luật của các bang có thể khác nhau trong việc quyết định khuyết tật sản phẩm.

Một số ví dụ thực tiễn áp dụng Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm ở Hoa Kỳ: Một bồi thẩm đoàn ở hạt San Diego ngày 03/06/2004 đã ra phán quyết buộc một hãng xe hơi Hoa Kỳ phải trả cho một phụ nữ bị tai nạn khi lái xe do hãng này sản xuất số tiền kỷ lục là gần 369 triệu USD, gồm 246 triệu tiền phạt và 122,6 triệu tiền bồi thường. Theo luật sư của bên nguyên trong vụ kiện này, một trong những nguyên nhân dẫn đến tai nạn thuộc về lỗi kỹ thuật thiết kế xe. Chiếc xe có trọng tâm cao, có khoảng cách giữa bánh xe trước và sau hẹp khiến người lái khó kiểm soát được tay lái trong những lúc quẹo cua gắt. Vì thế vào tháng 1/2002, trên xa lộ liên bang phía đông San Diego, chủ nhân chiếc xe bị tai nạn này đã tránh một chướng ngại vật trên đường và bị mất kiểm soát tay lái dẫn đến xe bị lật mấy vòng. Khi xe bị lật mui xe đã sụp xuống đè lên người nạn nhân làm bà ta bị liệt nửa người.

Không chỉ nhà sản xuất, mà các nhà phân phối và bán lẻ những sản phẩm có khuyết tật cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm một cách nghiêm khắc. Trong những trường hợp nhất định, các nhà phân phối và bán lẻ có thể chuyển trách nhiệm cho nhà sản xuất. Do vậy, việc soạn thảo hợp đồng và đơn mua hàng một cách cẩn thận có vai trò quan trọng trong vấn đề này. Nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ có thể được giảm nhẹ hoặc thậm chí miễn trách trong một số trường hợp, ví dụ như trong trường hợp khách hàng sử dụng sai hoặc thay đổi sản phẩm.

Trong thời gian tới, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Chỉ khi có luật và trên cơ sở đó có các văn bản dưới luật, các văn bản pháp quy khác để điều chỉnh thì các cơ quan thực thi pháp luật

mới có cơ sở triển khai thực hiện, sức mạnh của bộ máy chính trị mới phát huy tác dụng. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các nước trên thế giới, kế thừa những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm của Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nên tập trung điều chỉnh các nội dung: Hệ thống các quyền của ngừơi tiêu dùng và những trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; Các hành vi thương mại không lành mạnh như hành vi thông tin gian dối, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, cưỡng ép người tiêu dùng …; Các vấn đề về hợp đồng tiêu dùng, trong đó có quy định về điều khoản hợp đồng không công bằng, ngôn ngữ hợp đồng, bảo hành và một số loại hợp đồng tiêu dùng đặc thù như hợp đồng bán hàng trực tiếp, hợp đồng cung ứng dịch vụ liên tục, hợp đồng bán hàng từ xa …; Các vấn đề về trách nhiệm sản phẩm (phân chia trách nhiệm chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm); Cơ quan chuyên trách về bảo vệ người tiêu dùng và các quyền năng của cơ quan này, nhất là quyền thanh tra, kiểm tra, quyền xử lý vi phạm; Các biện pháp chế tài và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp chế tài, trong dó cần bổ sung các loại chế tài như cảnh báo, công bố công khai hành vi vi phạm, khuyến nghị phương thức chấp hành pháp luật …; Các quy định về Hội bảo vệ người tiêu dùng, trong đó cần nêu rõ cơ chế hỗ trợ tài chính cho các Hội này hoạt động.

Để pháp luật bảo vệ người tiêu dùng được thực thi hiệu quả, Nhà nước và pháp luật phải phát huy được vai trò cơ bản và chủ động của từng người tiêu dùng trong việc tự bảo vệ và thiết lập các cơ chế để họ thực hiện quyền năng của mình một cách tích cực. Bởi lẽ, pháp luật chỉ có thể đem lại giá trị thực tế khi người tiêu dùng nhận biết và có khả năng vận dụng một cách hiệu quả quyền năng của mình. Nhà nước không thể tự cho mình hoặc tự thành lập những tổ chức có vai trò bảo vệ người tiêu dùng, trong khi chính người được bảo vệ không nhận biết và không có được môi trường để thực hiện quyền tự vệ. Sự thiếu hiểu biết pháp luật của người tiêu dùng lại tạo nên cơ hội cho doanh

nghiệp thực hiện hành vi vi phạm. Như một tất yếu, khi người tiêu dùng không nhận thức trọn vẹn địa vị pháp lý của mình và không thể tự vệ, sẽ xuất hiện hiện tượng coi thường pháp luật từ các doanh nghiệp; thái độ thờ ơ, lãnh cảm trước pháp luật và sự cam chịu của người tiêu dùng. Để thay đổi được thực trạng, cần có những cải cách mang tính đột phá về hình thức và nội dung của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang được xây dựng. Trong pháp luật hiện hành, công thức chung của các quy định về địa vị pháp lý của chủ thể thường là liệt kê các quyền, nghĩa vụ hoặc trách nhiệm. Sự liên kết không giải thích hoặc không được cụ thể hoá bằng cơ chế thực thi thích hợp đã làm cho các quy định của pháp luật trở thành những tuyên ngôn không có giá trị thi hành trên thực tế. Đặc thù của lĩnh vực pháp luật này là các quyền của người tiêu dùng phát sinh và được thực hiện chủ yếu trong quan hệ giữa từng cá nhân có nhu cầu tiêu dùng với doanh nghiệp hoặc với các cơ quan nhà nước khi có khiếu nại, khiếu kiện. Do đó, với nguyên lý đối ứng, quyền của người tiêu dùng chỉ được tôn trọng khi pháp luật có cơ chế hợp lý ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp, của các cơ quan nhà nước, các cán bộ có liên quan một cách chi tiết, cụ thể. Ví dụ, quyền được thông tin của người tiêu dùng chỉ được thực hiện trên thực tế khi pháp luật xác định cụ thể nội dung minh bạch thông tin của các doanh nghiệp liên quan đến sản phẩm mà họ cung cấp. Đương nhiên, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không thể dự liệu tất cả các vấn đề và cơ chế ràng buộc trách nhiệm cho doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực của nền kinh tế. Mỗi lĩnh vực với đặc thù riêng về sản phẩm và cách thức cung cấp, tiêu thụ sẽ có những quy chuẩn khác nhau cho doanh nghiệp và những người có liên quan trong việc cung cấp thông tin. Vì vậy, xây dựng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải được thực hiện đồng thời với công tác rà soát hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan để khi ghi nhận một quyền năng nào đó cho người tiêu dùng cần dự liệu những nguyên tắc cho việc hoàn thiện cơ chế thực thi ở những lĩnh vực pháp luật tương ứng. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức pháp lý cho người tiêu dùng cần được thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục hiệu quả. Đầu tư cho các cuộc hội thảo

khoa học về vấn đề này có lẽ chỉ giải quyết các yêu cầu mang tính chiến lược, định hướng cho công tác xây dựng pháp luật và hoàn thiện cơ chế thực thi. Giá trị thực tế của một đạo luật hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ và sự hợp tác của các chủ thể là đối tượng áp dụng của đạo luật đó. Vì vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật vẫn còn là một nhu cầu cấp thiết trong điều kiện hiện nay.

3.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm xử lý các vi phạm của doanh nghiệp

Các quy định về xử lý các vi phạm của doanh nghiệp cần lưu ý đến chủ thể thực hiện hành vi. Cách tiếp cận của pháp luật hiện hành là cố gắng liệt kê đầy đủ những kiểu vi phạm và dự liệu mức xử lý thích đáng. Điều 7 Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã liệt kê 04 loại hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là sản xuất kinh doanh hàng cấm, hàng giả; sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường, nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người, trái với thuần phong mỹ tục; thông tin quảng cáo sai sự thật; các hành vi vi phạm khác nhằm lừa dối người tiêu dùng. Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật trong các lĩnh vực cạnh tranh, khuyến mại, quảng cáo … có các quy định nghiêm cấm hành vi của các tổ chức, cá nhân kinh doanh xâm phạm lợi ích người tiêu dùng. Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng nên bổ sung thêm và làm rõ về từng hành vi vi phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực xây dựng các quy định đầy đủ và rõ ràng về vấn đề này, pháp luật cũng cần phân hoá cách xử lý theo đối tượng thực hiện hành vi. Với những đối tượng khác nhau, cách thức vi phạm, mức độ và phạm vi xâm hại sẽ khác nhau nên cách thức xử lý không thể giống nhau.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Dưới góc độ cạnh tranh, hệ thống doanh nghiệp Việt Nam đang bị phân hoá theo mức độ và khả năng chi phối thị trường. Thực tế và lý luận đã cho thấy, vị trí của người tiêu dùng trước doanh nghiệp giảm dần khi khả năng chi phối thị trường tăng lên. Trước những doanh nghiệp có quyền lực thị trường, người tiêu dùng luôn yếu thế do thiếu kinh nghiệm và bị hạn chế quyền lựa chọn. Nhu cầu

của họ bị lệ thuộc vào mức độ cung ứng của doanh nghiệp. Thế nên, phản ứng của tập thể và của từng cá nhân người tiêu dùng cũng yếu ớt và mờ nhạt hơn trước sự vi phạm của nhà độc quyền hoặc thống lĩnh so với vi phạm của các doanh nghiệp bình thường. Thậm chí, có thể xuất hiện những thái độ bất chấp dư luận của các doanh nghiệp độc quyền hoặc thống lĩnh. Đâu đó đã có hiện tượng doanh nghiệp tận dụng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền để bóc lột người tiêu dùng. Thậm chí, một vài doanh nghiệp còn khai thác cơ chế chủ quản để hợp pháp hoá hoặc duy trì những điều kiện giao dịch không có lợi cho người tiêu dùng … Qua các vụ việc về hành vi làm sai lệch cơ chế đo lường của điện kế điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh, của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, liên minh duy trì giá vận tải của các doanh nghiệp taxi, các doanh nghiệp vận tải hành khách, vận tải hàng hoá … cho thấy phạm vi chịu thiệt hại khá lớn và mức độ thiệt hại không nhỏ. Nguy hại hơn là lòng tin của người dân vào năng lực quản lý của Nhà nước có phần suy giảm. Cơ chế xử lý vi phạm sẽ không có được kết cục tốt đẹp cho xã hội nếu được áp dụng chung cho mọi loại doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có hay không có quyền lực thị trường. Với khả năng chi phối thị trường, các tập đoàn, nhóm doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp thống lĩnh, doanh nghiệp độc quyền hoàn toàn có đủ điều kiện tác động đến quyết định của người tiêu dùng bởi nhu cầu của họ đang bị lệ thuộc vào doanh nghiệp. Chưa kể đến khả năng doanh nghiệp sử dụng các quan hệ có sẵn chi phối các quyết định của người có thẩm quyền xử lý. Như vậy, việc xử lý các hành vi vi phạm đơn lẻ của một vài doanh nghiệp sẽ đơn giản hơn so với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc so với việc xử lý các thoả thuận bóc lột người tiêu dùng của nhiều doanh nghiệp hoạt động trên cùng thị trường liên quan. Khi quyền lựa chọn còn trong tay người tiêu dùng, sự phản ứng của tập thể có thể là cơ chế tự vệ hiệu quả. Ngược lại, người tiêu dùng sẽ không còn khả năng tự vệ khi bị mất quyền lựa chọn. Với cùng một hành vi, mức độ và phạm vi thiệt hại sẽ khác nhau tuỳ theo người thực hiện có hoặc không có vị trí thống lĩnh thị trường. Thế nên, pháp luật khó phát huy được giá trị điều chỉnh nếu quy trình xử lý, thẩm

Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng theo Pháp luật Dân sự Việt Nam - 12

quyền xử lý và các biện pháp xử lý không phân hoá theo chủ thể vi phạm. Một mức xử phạt nào đó có thể đủ để răn đe đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng lại không có tác dụng khi áp dụng cho doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc quyền.

Vì những lý do nêu trên, trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng không thể trao tuyệt đối cho một đạo luật và một cơ quan duy nhất nào đó. Cần có sự phối hợp nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau để xử lý vi phạm tuỳ theo đối tượng thực hiện hành vi, đặc biệt phải lưu ý đến quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Luật Cạnh tranh với các thiết chế đặc dụng có thể điều tiết và xử lý hành vi của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp độc quyền và các thoả thuận hạn chế cạnh tranh xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Hiện nay, các quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh cũng đã quan tâm đến việc bảo vệ người tiêu dùng bằng các quy định cấm đoán các hành vi ấn định giá mua, giá bán bất hợp lý, ấn định giá bán lại; hành vi phân chia thị trường để tạo lập vị thế độc quyền cục bộ; hành vi chi phối cung cầu của thị trường … Tuy nhiên, vẫn tồn tại những hành vi bị bỏ sót như phân biệt đối xử hoặc áp đặt các điều kiện mua bán hoặc các nghĩa vụ không liên quan đến đối tượng của hợp đồng mà người bị thiệt hại là người tiêu dùng. Vì thế, bên cạnh việc xây dựng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cần phải rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh (tương tự với những văn bản khác có liên quan) để phát huy hiệu quả của cả hệ thống pháp luật trong việc duy trì sự công bằng cho người tiêu dùng.

3.2.3. Xác định hệ thống các quyền của người tiêu dùng

Tính cá biệt và không phụ thuộc vào giá trị thiệt hại phải là đặc thù quan trọng của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Vấn đề cần giải quyết không phải là việc thay đổi khái niệm người tiêu dùng mà là phải xây dựng cơ chế hợp lý để tạo điều kiện cho từng cá nhân – người tiêu dùng sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Các cơ quan có thẩm quyền phải có trách

nhiệm bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân bằng cách buộc người vi phạm bồi thường những thiệt hại, cho dù giá trị thiệt hại không lớn và xử lý hành vi vi phạm, cho dù chỉ xâm phạm đến một đối tượng cụ thể. Pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền không được từ chối giải quyết những yêu cầu mang tính cá nhân, giá trị bồi thường không lớn. Có như vậy, pháp luật mới thực sự trở thành công lý cho người dân và là công cụ hữu hiệu để từng người, tập thể người tiêu dùng tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân.

Để xây dựng được cơ chế này, trước hết pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải thể hiện được 08 quyền cơ bản của người tiêu dùng, bao gồm: quyền được an toàn, quyền được lựa chọn, quyền được đào tạo về tiêu dùng, quyền được thông tin, quyền được đại diện, quyền được trả lại hàng hoá và bồi thường thiệt hại, quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được có một môi trường lành mạnh. Đối với vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng, cần tập trung làm rõ được 04 quyền sau:

Quyền được an toàn: là quyền của người tiêu dùng được an toàn về tính mạng, sức khoẻ khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ. Trong những năm qua, đặc biệt trong thời gian gần đây, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm luôn giữ vị trí trọng tâm trong sinh hoạt của người dân Việt Nam. Hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng phải đảm bảo các điều kiện cơ bản, có thể sử dụng được và không gây hại đến sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng. Hàng hoá và dịch vụ cung ứng đe doạ đến sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng phải được thu hồi khỏi thị trường theo một quy trình nhanh gọn và đơn giản. Nếu các nguy cơ gắn liền với sản phẩm đang được người tiêu dùng sử dụng, người tiêu dùng cần phải được thông báo kịp thời về chất lượng của sản phẩm để tránh các hậu quả đe doạ đến sức khoẻ, tính mạng của họ có thể gây ra từ các sản phẩm hay dịch vụ kém chất lượng. Hiện nay chúng ta đã xây dựng Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật. Trong thời gian tới, các Bộ cần đẩy mạnh xây dựng các quy chuẩn cho hàng hoá, dịch vụ do Bộ quản lý và giám sát nghiêm ngặt việc thực hiện những quy định này. Đối với các sản phẩm liên quan đến những quy chuẩn bắt buộc,

các doanh nghiệp phải thông báo và hướng dẫn chi tiết, rõ ràng về các ảnh hưởng có hại trên nhãn hàng hoá và trên quảng cáo, có hướng dẫn sử dụng để người tiêu dùng tự bảo vệ mình. Đồng thời, cần hệ thống hoá, hoàn thiện các chế tài đối với hành vi cung cấp hàng hoá, dịch vụ không an toàn, bao gồm cả chế tài dân sự, chế tài hành chính và chế tài hình sự.

Quyền được lựa chọn: là quyền của người tiêu dùng tự do thể hiện ý chí, tự định đoạt trong việc lựa chọn hàng hoá, dịch vụ mà không phụ thuộc ý chí của người sản xuất, kinh doanh. Để thực hiện được quyền này, Luật Bảo vệ người tiêu dùng phải quy định các nguyên tắc: phải công bố rõ ràng tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, dịch vụ; niêm yết giá công khai; cung cấp thông tin về hàng hoá, dịch vụ trung thực, đầy đủ; nghiêm cấm hành vi cạnh tranh không lành mạnh; ghi nhận quyền đòi bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.

Quyền được đại diện: là quyền của người tiêu dùng trong việc thông qua người khác hoặc tổ chức khác để bảo vệ quyền lợi của mình. Cơ chế đại diện đã được quy định trong Bộ luật Dân sự. Tổ chức đại diện cho người tiêu dùng hiện nay đã được thành lập, đó là Hội bảo vệ người tiêu dùng. Vấn đề đặt ra là vị trí pháp lý của Hội như thế nào.

Quyền được trả lại hàng hoá và bồi thường thiệt hại: là quyền được khắc phục, sửa chữa, đổi hàng hoá kém chất lượng hoặc dịch vụ không đáp ứng được yêu cầu. Để thực hiện được quyền này, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần quy định hệ thống tổ chức giải quyết khiếu nại từ trung ương đến địa phương; quy định rõ về các thủ tục khiếu nại, giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, cũng cần ghi nhận người tiêu dùng có quyền được từ chối, trả lại hàng hoá trong một số trường hợp như: trường hợp bán hàng giao tận nhà, cam kết mua hàng trả góp, mua hàng từ xa qua internet… Vì vậy cần thiết phải có quy định về quyền được trả lại sản phẩm trong một thời gian pháp lý nhất định.

3.2.4. Xác định trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 14/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí