Đặc Điểm Của Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Quyền Lợi Người Tiêu Dùng

đến cuộc sống con người và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh trong lĩnh vực này như: Luật Đo lường số 04/2011/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2012; Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006… mới đây Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa có hiệu lực vào đầu năm 2008 thay thế cho Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1999.

Theo Luật Chất lượng hàng hóa 2007 thì: “Người sản xuất thông báo sản phẩm của mình phù hợp với tiêu chuẩn (sau đây gọi là công bố hợp chuẩn) hoặc với quy chuẩn kỹ thuật (sau đây gọi là công bố hợp quy) [22. Khoản 1, Điều 24].

Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật được Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật giải thích như sau:

- Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này.

Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng.

- Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác.

Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng [22. Điều 3].

Cũng theo luật này thì các cơ sở sản xuất kinh doanh phải công bố tiêu

chuẩn kỹ thuật mà mình áp dụng và đảm bảo việc phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế tương ứng.

Để cụ thể hóa những quy định của pháp luật thì các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra các chỉ số để đánh giá chất lượng sản phẩm. Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ISO, trong DIS 9000: 2000, đã đưa ra định nghĩa: “Chất lượng hàng hóa là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan.”

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Hàng hóa không đảm bảo chất lượng là những hàng hóa được sản xuất, kinh doanh không đúng theo tiêu chuẩn (có thể là tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn Việt Nam…) đã được cơ sở sản xuất kinh doanh đó công bố. Cũng trên lập luận đó, hành vi sản xuất, kinh doanh sản phẩm trên bị coi là trái luật. Khi có bất kỳ sự cố kỹ thuật nào xảy ra trong thời hạn bảo hành thì nhà sản xuất kinh doanh phải có trách nhiệm sửa chữa, bảo hành, thậm chí bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong trường hợp người tiêu dùng không thực hiện đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất, kinh doanh mà gây ra thiệt hại thì nhà sản xuất kinh doanh không phải chịu trách nhiệm bồi thường.

* Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra:

Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn - 6

Nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nếu giữa hành vi và thiệt hại không có một mối liên hệ nào thì sự tồn tại khách quan và riêng lẻ đó sẽ không là cơ sở để quy trách nhiệm cho một chủ thể cụ thể nào.

Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thì việc xác định mối quan hệ nhân quả chính là việc chỉ ra thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra trên thực tế. Nó phải được gắn bó với nhau trong một quá trình vận động. Nguyên

nhân và kết quả là một cặp phạm trù triết học. “Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện”[9]. Mối quan hệ này luôn có tính khách quan, tính phổ biến và tính tất yếu. Nghĩa là không phụ thuộc vào ý chí của con người, tồn tại trong mọi xã hội và cùng một nguyên nhân nhất định thì trong những điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau.

Ở đây hành vi sản xuất kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng, vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng phải là nguyên nhân và thiệt hại về tính mạng, sức khỏe… của người tiêu dùng là hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, một hậu quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và một nguyên nhân cũng có thể làm phát sinh nhiều hậu quả. Bởi vậy nên việc xác định mối tương quan giữa chúng là một việc vô cùng phức tạp. Muốn xác định đúng thiệt hại nào là hậu quả của hành vi trái pháp luật nào thì trước hết cần phải có những căn cứ đầy đủ và khách quan làm cơ sở để đánh giá. Sau đó cần xem xét, phân tích nó trong tổng thể những sự kiện, hoàn cảnh khi thiệt hại xảy ra, nếu cần thiết phải có sự hỗ trợ của cơ quan giám định. Việc đánh giá phải rất thận trọng vì chỉ cần một sai sót nhỏ cũng có thể dẫn đến những đánh giá sai lầm và sẽ không thể tìm được mối dây liên hệ.

Việc xác định mối quan hệ nhân quả có liên hệ trực tiếp tới nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể “việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người vi phạm nghĩa vụ dân sự” [16. Khoản 3, Điều 309]. Bộ luật Dân sự 2005 không quy định nghĩa vụ chứng minh nhưng trong Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định nghĩa vụ chứng minh của các đương sự. Theo đó, trong trường hợp này, người tiêu dùng yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ. Sau đó, việc chứng minh không có lỗi thuộc về nghĩa vụ của nhà sản xuất kinh doanh.

Hiện nay trên thế giới, lý thuyết về mối quan hệ nhân quả tồn tại hai quan điểm:

Thuyết điều kiện cần thiết: hành vi trái pháp luật đầu tiên nằm trong một chuỗi các hành vi và hậu quả không thể nào xảy ra nếu không có hành vi ban đầu. Vì vậy, người có hành vi trái pháp luật đầu tiên và những hành vi trái pháp luật tiếp theo sau đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Thuyết nhân quả phổ biến: một người có hành vi trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại nếu hành vi đó trong điều kiện bình thường dẫn đến một hậu quả thiệt hại.

Theo phép duy vật biện chứng thì khi nghiên cứu mối quan hệ nhân quả về nguyên tắc là nghiên cứu về mặt nguồn gốc và theo trình tự thời gian của một quá trình diễn biến trong hiện thực nói chung. Ta phải thấy được sự tất yếu, phù hợp của kết quả đối với nguyên nhân xét về những hình thức khác nhau. Tuy nhiên sự tác động của các nguyên nhân dẫn đến những kết quả khác nhau nhưng ta phải xác định được nguyên nhân cơ bản nhất, nguyên nhân có tính chất tất yếu đối với việc hình thành kết quả. Trạng thái đa nguyên nhân thường dẫn đến những vấn đề phức tạp. Hiện nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam, cụ thể là Bộ luật Dân sự 2005 chưa có quy định cụ thể về xác định mối quan hệ nhân quả cũng như không tuyệt đối hóa bất cứ thuyết nào, việc xác định mối quan hệ nhân quả vẫn dựa trên yếu tố ảnh hưởng của các nguyên nhân đối với thiệt hại. Nghĩa là ta phải tìm ra nguyên nhân có tính chất tất yếu và quyết định dẫn đến thiệt hại, từ đó mới xác định được người chịu trách nhiệm bồi thường. Có hai trường hợp:

Một là: có nhiều hành vi trái pháp luật nhưng chỉ có một hành vi trái pháp luật duy nhất có tính chất quyết định gây ra thiệt hại.

Ví dụ: một người đang điều khiển xe máy trên đường nhưng đột nghiên xe bị chết máy giữa đường. Một chiếc xe tải do chạy quá tốc độ đã đâm vào

xe máy đó gây hậu quả chết người. Trong trường hợp này có thể nhà sản xuất đã không đảm bảo chất lượng để xe máy vận hành bình thường nhưng đó không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho người điều khiển xe máy mà nguyên nhân chính là do người lái xe tải đã không làm chủ được tốc độ của mình và gây tai nạn.

Hai là: tất cả những hành vi trái pháp luật đều là nguyên nhân có quyết định như nhau dẫn đến thiệt hại. Trường hợp này sẽ phát sinh trách nhiệm liên đới giữa các chủ thể cùng gây ra thiệt hại theo Khoản 1, Điều 298, Bộ luật Dân sự 2005.

Ví dụ: A sản xuất rượu giả, B biết nhưng vẫn mua về bán dẫn đến người tiêu dùng bị ngộ độc, một số trường hợp bị tử vong. Trường hợp này cả A và B đều có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trực tiếp cho người tiêu dùng và phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường.

Tóm lại việc xác định mối quan hệ nhân quả rất có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm của người gây ra thiệt hại. Đó phải là trách nhiệm được nhìn nhận đúng đắn và khách quan trên cơ sở đảm bảo quyền được bồi thường của người tiêu dùng.

* Thứ tư, có lỗi của người gây ra thiệt hại

Lỗi là một trong những yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của

mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.” [15. Điều 308].

Hình thức lỗi là một yếu tố có ý nghĩa để làm căn cứ giảm mức bồi thường thiệt hại. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường khi thỏa mãn đủ hai điều kiện sau:

- Lỗi của người gây thiệt hại là lỗi vô ý;

- Thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại [15. Điều 605].

Đây là một quy định mang tính nhân đạo và góp phần tăng tính khả thi trong thi hành án. Ngoài ra thì trong các trong các trường hợp khác của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì dù có lỗi cố ý hay vô ý đều phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra. Điều này xuất phát từ tính chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đây là loại trách nhiệm mà quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đều do pháp luật quy định vì trước khi xảy ra thiệt hại các bên trong quan hệ không có một mối liên hệ ràng buộc nào hoặc nếu có cũng không liên quan đến quyền và nghĩa vụ bồi thường này. Hơn nữa việc quy định như vậy là phù hợp với nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời nhằm khắc phục, giảm thiểu tối đa những thiệt hại xảy ra.

Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ta có thể dễ dàng nhận ra một điều là nhà sản xuất kinh doanh là những người trực tiếp tạo ra sản phẩm và bán ra thị trường nên chính họ là những người am tường nhất về sản phẩm của mình về tất cả các mặt, từ kỹ thuật đến tính năng, công dụng, phản ứng… còn người tiêu dùng chỉ là những người được cung ứng và sử dụng sản phẩm trên cơ sở hướng dẫn của nhà sản xuất kinh doanh. Bởi vậy, người tiêu dùng sẽ ở một vị trí “yếu thế” hơn so với

nhà sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp sản phẩm không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại thì nhà sản xuất kinh doanh mặc nhiên bị coi là có lỗi (có thể không phải là lỗi cố ý nhưng do một khiếm khuyết tại một khâu nào đó trong dây truyền sản xuất dẫn đến sản phẩm không đảm bảo chất lượng như tiêu chuẩn…). Lỗi ở đây là lỗi suy đoán. Trong trường hợp này muốn thoát khỏi trách nhiệm nhà sản xuất kinh doanh phải chứng minh mình không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại.

Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng nhà sản xuất kinh doanh phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong mọi trường hợp không phụ thuộc vào yếu tố lỗi. Nghĩa là lỗi không phải là một căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng (không tính đến yếu tố lỗi). Quan điểm này phù hợp với xu hướng hiện nay các nước đều rất chú trọng đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trước những cách thức tinh vi của những nhà sản xuất trong xã hội hiện đại với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ tiên tiến. Quy định như vậy cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà sản xuất kinh doanh đối với người tiêu dùng và lợi ích của cả cộng đồng. Tuy nhiên quan điểm này chưa đủ sức thuyết phục vì nó không dựa trên cơ sở những quy định cụ thể của pháp luật, tất cả mới chỉ là sự phỏng đoán và có thể đúng trong trường hợp này nhưng lại không đúng trong trường hợp khác. Điều đó sẽ tạo nên sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Như vậy sẽ không đảm bảo sự công bằng cho nhà sản xuất kinh doanh trong mối quan hệ với người tiêu dùng. Cũng có tác giả cho rằng một trong những trường hợp phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi là khi hàng hóa là nguồn nguy hiểm cao độ. Nhưng theo tác giả đây không phải là một trường hợp khác của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bởi nguyên nhân sau:

“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn

nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi…” [15. Điều 623] nhưng khi hàng hóa đã được chuyển quyền sở hữu cho người tiêu dùng thì người tiêu dùng sẽ là chủ sở hữu chứ nhà sản xuất kinh doanh không còn là chủ sở hữu nữa. Vì vậy nếu người tiêu dùng sử dụng sản phẩm không đảm bảo chất lượng đó mà gây thiệt hại cho người thứ ba thì trước tiên người tiêu dùng phải bồi thường trước còn việc hàng hóa là nguồn nguy hiểm cao độ đó không đảm bảo chất lượng lại là trách nhiệm trong hợp đồng giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Như vậy trách nhiệm của nhà sản xuất kinh doanh không hề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Việc hàng hóa có là nguồn nguy hiểm cao độ hay không không ảnh hưởng đến việc xác định lỗi của nhà sản xuất trong trường hợp này.

Theo quan điểm của tác giả lỗi của nhà sản xuất kinh doanh trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là lỗi suy đoán.

Tựu chung lại, yếu tố lỗi là một trong những điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Yếu tố lỗi trong nhiều trường hợp rất khó xác định và cần phải căn cứ vào những quy định của pháp luật ở nhiều ngành luật khác nhau kết hợp với các điều kiện khác làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì mới có thể đưa ra phương án giải quyết hợp lý.

1.2.3 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên nó cũng chứa đựng những đặc điểm chung nhất của loại trách nhiệm này. Vì vậy ở đây chúng ta không bàn luận về những đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà chúng ta xem xét đặc điểm khác biệt của bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 03/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí