A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự, chủ thể của
tội phạm này cũng là chủ
thể
đặc biệt, chỉ những người có trách nhiệm
trong việc quản lý sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận
chuyển, sử phạm này.
Có thể bạn quan tâm!
- Tội Vi Phạm Quy Định Về Quản Lý Vũ Khí, Vật Liệu Nổ, Công Cụ Hỗ Trợ
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 4 Điều 234 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tù Từ Mười Lăm Năm Đến Hai Mươi Năm Hoặc Tù Chung Thân:
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 238 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 239 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Gây Hậu Quả Rất Nghiêm Trọng Thì Bị Phạt Tù Từ Hai Năm Đến Bảy Năm.
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
dụng, mua bán chất phóng xạ
mới có thể là chủ thể của tội
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất phóng xạ là tội xâm
phạm đến chế độ
quản lý của Nhà nước về
việc sản xuất, trang bị, sử
dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất phóng xạ.
Tương tự như đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, đối tượng tác động của tội phạm này cũng là chất phóng xạ.
Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân, gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hoá học có khả năng phát ra các chùm tia An-pha, Bê-ta, Gam-ma... Tác hại đặc trưng của chất phóng xạ là gây bệnh, phóng xạ đối với người và động vật.
Khi xác định đối tượng tác động có phải là chất phóng xạ hay không
các cơ
quan tiến hành tố
tụng cần tham khảo ý kiến của các cơ
quan
chuyên môn hoặc trưng cầu giám định.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ.
Hành vi vi phạm quy định về việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất phóng xạ tương tự với hành vi vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự. Dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa hai tội này là đối tượng tác động. Tuy nhiên, hành vi của tội phạm này có
nhiều điểm giống với hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép chất phóng xạ quy định tại Điều 236 Bộ luật hình sự.
Khi xác định từng hành vi cụ thể của tội phạm này, cần nghiên cứu kỹ các quy định của Nhà nước về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất phóng xạ.
b. Hậu quả
Hậu quả
của hành vi vi
phạm quy định về quản lý việc sản xuất,
trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất phóng xạ không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng không vì thế mà cho rằng tội phạm này là tội phạm có cấu thành hình thức. Tuy nhiên, việc xác định hậu quả của hành vi phạm tội là rất quan trọng, vì nếu gây ra thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội bị trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.
Khả năng thực tế dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nếu không được
ngăn chặn kịp thời cũng tương tự
như
đối với trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 234 Bộ luật hình sự, nhưng khác khoản 4 Điều 234 Bộ luật hình sự là khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 237 Bộ luật hình sự là hậu quả nghiêm trọng chứ không phải là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Việc xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ sẽ gây ra nếu không được ngăn chặn kịp thời là một
việc khó nhưng cũng như trường hợp đối với trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 234 Bộ
luật hình sự, căn cứ
vào hành vi vi phạm trong
trường hợp cụ thể, hoàn cảnh cụ thể vẫn có thể xác định được. Ví dụ: Đỗ Xuân Đ không thực hiện đúng các quy định về quản lý việc bảo quản chất phóng xạ nên đã để chất phóng xạ dỏ rỉ nhưng được phát hiện kịp thời nên ngăn chặn được thiệt hại; nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ gây tổn hại đến sức khoẻ của nhiều người.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Mặc dù điều luật không quy định những dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, để xác định hành vi vi phạm cũng như đối tượng tác động của tội phạm này không thể không nghiên cứu các quy định của Nhà nước về việc quản lý chất phóng xạ.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, sửa chữa, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất phóng xạ là do vô ý.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 237 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 237 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
Do khoản 1 của điều luật quy định “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời” chứ không quy
định gây hậu quả nghiêm trọng. Do đó khi xác định người phạm tội có
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật hay không, ngoài các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì trước hết cần xác định hậu quả nghiêm trọng nếu xẩy ra là những thiệt hại gì và nếu không được ngăn chặn kịp thời thì những thiệt hại đó ắt sẽ xẩy ra. Bởi lẽ, nếu không xác định thiệt hại đó là thiệt hại gì thì cũng không thể xác định hành vi vi phạm đã cấu thành tội phạm chưa và còn phân biệt với trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật.
Để xác định thế
nào hậu quả
nghiêm trọng nếu không được ngăn
chặn kịp thời có thể
căn cứ
vào hướng dẫn tại Thông tư
liên tịch sô
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001
của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội
xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây
hậu quả
nghiêm trọng do hành vi
vi phạm
vi phạm quy định về
quản lý
chất phóng xạ gây ra nếu không được ngăn chặn kịp thời.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt dưới sáu tháng tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 237 Bộ luật hình sự
Khoản 2 Điều 237 Bộ luật hình sự quy định tình tiết là yếu tố định khung hình, đó là gây thiệt hại cho tính mạng, sức khoẻ của người khác.
Khác với các trường hợp quy định tại các Điều 234, 235 Bộ luật hình
sự nhà làm luật chỉ quy định gây thiệt cho sức khoẻ của người khác mà
không quy định gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người khác, nên chỉ cần gây thiệt hại cho sức khoẻ của người khác là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật. Tuy nhiên, người bị tổn hại đến sức khoẻ, tổn hại cho sức khoẻ của người khác là do vô ý gây ra nên cũng chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo khoản 2 của điều luật nếu gây thiệt hại cho sức khoẻ của
người khác mà có tỷ lệ thương tật trên 31%; nếu tỷ lệ thương tật dưới
31% thì chỉ nên truy cứu người phạm tội theo khoản 1 của điều luật.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội chỉ gây thiệt hại cho sức khoẻ của người khác, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới ba năm tù; nếu người phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 237 Bộ luật
Khoản 3 Điều 237 Bộ luật hình sự quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình, đó là gây hậu qủa rất nghiêm trọng.
Do chưa có hướng dẫn thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng thì người
phạm tội có thể bị
phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội
phạm rất nghiêm trọng nhưng mức độ nghiêm trọng cao hơn trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật.
Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm tù; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.
4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 237 Bộ luật hình sự
Khoản 3 Điều 237 Bộ luật hình sự quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình, đó là gây hậu qủa đặc biệt nghiêm trọng.
Cũng như đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định
tại khoản 3 của điều luật, có thể
vận dụng
Thông tư
liên tịch số
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001
của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới mười lăm năm tù nhưng không được dưới bảy năm tù; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù.
5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ năm năm.
một năm đến
16. TỘI
SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ
DỤNG
HOẶC MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT CHÁY, CHẤT ĐỘC
Điều 238.
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng hoặc
mua bán trái phép chất cháy, chất độc
1. Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép chất cháy, chất độc, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
c) Vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới;
d) Gây hậu qủa nghiêm trọng; đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến
năm mươi triệu đồng, phạt quản chế năm năm.
hoặc cấm cư trú từ một năm đến
Định nghĩa: Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc là hành vi làm ra, cất giữ,
chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt,
cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất cháy, chất độc.
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc là tội phạm được tách từ tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ đã được quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985, nay quy định thành 3 tội khác nhau, riêng chất cháy, chất độc quy định tại Điều 238, chất phóng xạ được quy định tại Điều 236, còn vật liệu nổ quy định tại Điều 232.
Sự khác nhau giữa Điều 238 với Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng tương tự như sự khác nhau giữa Điều 236 với Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 như đã phân tích đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Do được tách từ tội “chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chát độc, chất phóng xạ” nên các dấu
hiệu cơ
bản của tội phạm này cũng tương tự như đối với tội “chế
tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ” quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự và tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất phóng xạ
quy
định tại Điều 236 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ đối tượng tác động của tội phạm này là chất cháy, chất độc chứ không phải là chất phóng xạ hay vật liệu nổ.
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này hoàn toàn tương tự với chủ thể của “sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ”. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2,
khoản 3 và khoản 4 của điều luật; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp
quy định tại khoản nào của điều luật.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất cháy, chất độc.
Đối tượng tác động của tội phạm này là chất cháy, chất độc.
Chất cháy là chất có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong không khí, nước hoặc khi có tác động của các yếu tố khác và những chất
dễ tự
bốc cháy
ở nhiệt độ
không cao như : diêm tiêu (ka-li-ni-trat), phốt
pho, thuốc đạn...
Chất độc là những chất có độc tính rất cao và rất có hại đối với sức khoẻ và tính mạng của con người, nếu bị nhiễm phải một liều lượng nhất
định nào đó (có thể là rất ít). Những loại chất độc quy định tại bảng A
như : A-cô-ni-tin và các muối của nó, kẽm Phốt-pho, Ni-cô-tin và các mối của nó, các loại muối thuỷ ngân...
Khi xác định đối tượng tác động có phải là chất cháy, chất độc hay không các cơ quan tiến hành tố tụng cần tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc trưng cầu giám định.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc thực hiện hành vi khách
quan hoàn toàn tương tự như đối với người phạm tội sản xuất, tàng trữ,