vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt quy định tại Điều 236 Bộ luật hình sự.
chất phóng xạ
b. Hậu quả
Hậu quả của hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết. Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 4 Điều 234 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tù Từ Mười Lăm Năm Đến Hai Mươi Năm Hoặc Tù Chung Thân:
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 237 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 239 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Gây Hậu Quả Rất Nghiêm Trọng Thì Bị Phạt Tù Từ Hai Năm Đến Bảy Năm.
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 242 Bộ Luật Hình Sự
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
Tương tự như đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ quy định tại Điều 236
Bộ luật hình sự, nếu việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng chất
cháy, chất độc được phép thì không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 238 Bộ luật hình sự.
Việc xác định hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán có trái phép hay không, cần căn cứ vào quy định của Nhà nước về sản xuất, quản lý, sử dụng, vận chuyển, mua bán chất cháy, chất độc.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc là do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái phép (trừ hành vi chiếm đoạt) nhưng vẫn thực hiện.
Nếu vì lý do nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc không buộc phải nhận thức được hành vi của mình là trái phép thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 238 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 238 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất cháy, chất độc không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2,
khoản 3 và khoản 4 Điều 236 Bộ luật hình sự có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Cũng như đối với chất phóng xạ, khoản 1 Điều 238 Bộ luật hình sự
không quy định số
lượng chất cháy, chất độc làm căn cứ
truy cứu trách
nhiệm hình sự, Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7-1-1995 cũng không
hướng dẫn số lượng bao nhiêu chất cháy, chất độc thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, nếu tội phạm này xảy ra các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự và các quy định của Nhà nước về quản lý chất phóng xạ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra để xác định hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc đã cấu thành tội phạm chưa và nếu đã cấu thành tội phạm thì thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới một năm tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 238 Bộ luật hình sự
Các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của Điều 236 Bộ luật hình sự bao gồm: phạm tội có tổ chức; vật phạm pháp có số
lượng lớn; vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới; gây hậu qủa
nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm. Chỉ khác ở chỗ đối tượng tác động của tội phạm này là chất cháy, chất độc chứ không phải chất phóng xạ.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì
người phạm tội bị nghiêm trọng.
phạt tù từ
ba năm đến mười năm, là tội phạm rất
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 238 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới ba năm tù nhưng không được dưới một năm tù. Nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình
sự, không có tình tiết giảm nhẹ
hoặc nếu có nhưng mức độ
giảm nhẹ
không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 238 Bộ luật hình sự
Cũng như đối với khoản 2 của điều luật, các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp
phạm tội quy định tại khoản 3 của Điều
236 Bộ luật hình sự, đó là:
vật
phạm pháp có số lượng rất lớn; gây hậu qủa rất nghiêm trọng.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 238 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng, nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp quy định tài khoản 2 của điều luật.
Khi quy định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật cần chú ý:
Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm.
Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.
4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 238 Bộ luật hình sự
Cũng như đối với khoản 3 của điều luật, các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 4 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp
phạm tội quy định tại khoản 4 của Điều
236 Bộ luật hình sự, đó là:
vật
phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 238 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Khi quy định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật cần chú ý:
Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới mười lăm năm tù nhưng không được dưới bảy năm tù.
Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật
hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật và người phạm
tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự,
không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến tù chung thân.
5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất chất cháy, chất độc còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
17. TỘI CHẤT ĐỘC
VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ
QUẢN LÝ CHẤT CHÁY,
Điều 239. Tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc
1. Người nào vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển hoặc mua bán chất cháy, chất độc
gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Định nghĩa:
Vi phạm quy định về
quản lý chất cháy, chất độc là
hành vi vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất chất cháy, chất độc.
Tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc là tội phạm
được tách từ Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 và tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự và tội vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ quy định tại Điều 237 Bộ luật hình sự.
So với Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 239 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như sau:
Nếu khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “vi phạm quy định về đặt kho, bảo quản, vận chuyển, sử dụng” thì khoản 1 Điều 239 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, mua bán ”.
Bổ sung trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật; tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 nay được quy định tại khoản 3 Điều 239 Bộ luật hình sự năm 1999.
Bỏ trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 của Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985.
Giảm mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 của
Điều 239 xuống còn năm năm (khoản 1 Điều 192 Bộ
luật hình sự
năm
1985 là bảy năm) và tăng mức hình phạt thấp nhất quy định tại khoản 3
của Điều 239 lên bảy năm (khoản 2 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 là năm năm).
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật
liệu nổ, công cụ
hỗ trợ
quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự và tội vi
phạm quy định về quản lý chất phóng xạ quy định tại Điều 237 Bộ luật
hình sự, chủ
thể
của tội phạm này cũng là chủ
thể
đặc biệt, chỉ những
người có trách nhiệm trong việc quản lý sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc.
Tương tự như đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc, đối tượng tác động của tội phạm này cũng là chất cháy, chất độc.
Khi xác định đối tượng tác động có phải là chất cháy, chất độc hay không các cơ quan tiến hành tố tụng cần tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc trưng cầu giám định.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc.
Hành vi vi phạm quy định về việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo
quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc cũng
tương tự với hành vi vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ. Dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa các tội này là đối tượng tác động.
Khi xác định từng hành vi cụ thể của tội phạm này, cần nghiên cứu kỹ các quy định của Nhà nước về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc.
b. Hậu quả
Hậu quả
của hành vi vi
phạm quy định về quản lý việc sản xuất,
trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành cơ bản. Nếu hành vi vi
phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc chưa gây thiệt hại cho tính
mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm này.
Các thiệt hại về tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác cũng tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Mặc dù điều luật không quy định những dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, để xác định hành vi vi phạm cũng như đối tượng tác động của tội phạm này không thể không nghiên cứu các quy định của Nhà nước về việc quản lý chất cháy, chất độc.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, sửa chữa, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc là do vô ý.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 239 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 239 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới một năm tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 239 Bộ luật hình sự.
Khoản 3 Điều 237 Bộ luật hình sự quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình, đó là gây hậu qủa rất nghiêm trọng.
Do chưa có hướng dẫn thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng thì người
phạm tội có thể bị nghiêm trọng.
phạt tù từ
ba năm đến mười năm, là tội phạm rất
Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng
nặng không đáng kể
thì có thể
được áp dụng hình phạt dưới ba năm tù
nhưng không được dưới một năm tù; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười năm tù.