Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 238 Bộ Luật Hình Sự

vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt quy định tại Điều 236 Bộ luật hình sự.

chất phóng xạ


b. Hậu quả


Hậu quả của hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết. Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc

biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách

nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.


c. Các dấu hiệu khách quan khác

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.


Tương tự như đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,

Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 20

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ quy định tại Điều 236

Bộ luật hình sự, nếu việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng chất

cháy, chất độc được phép thì không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 238 Bộ luật hình sự.


Việc xác định hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán có trái phép hay không, cần căn cứ vào quy định của Nhà nước về sản xuất, quản lý, sử dụng, vận chuyển, mua bán chất cháy, chất độc.


4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm


Người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc là do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái phép (trừ hành vi chiếm đoạt) nhưng vẫn thực hiện.


Nếu vì lý do nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc không buộc phải nhận thức được hành vi của mình là trái phép thì không thuộc trường hợp phạm tội này.


B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ


1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 238 Bộ luật hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 238 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm

đoạt chất cháy, chất độc không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2,

khoản 3 và khoản 4 Điều 236 Bộ luật hình sự có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.


Cũng như đối với chất phóng xạ, khoản 1 Điều 238 Bộ luật hình sự

không quy định số

lượng chất cháy, chất độc làm căn cứ

truy cứu trách

nhiệm hình sự, Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7-1-1995 cũng không

hướng dẫn số lượng bao nhiêu chất cháy, chất độc thì bị truy cứu trách

nhiệm hình sự theo khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985. Vì vậy, nếu tội phạm này xảy ra các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự và các quy định của Nhà nước về quản lý chất phóng xạ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra để xác định hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc đã cấu thành tội phạm chưa và nếu đã cấu thành tội phạm thì thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới một năm tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.


2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 238 Bộ luật hình sự


Các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của Điều 236 Bộ luật hình sự bao gồm: phạm tội có tổ chức; vật phạm pháp có số

lượng lớn; vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới; gây hậu qủa

nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm. Chỉ khác ở chỗ đối tượng tác động của tội phạm này là chất cháy, chất độc chứ không phải chất phóng xạ.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì

người phạm tội bị nghiêm trọng.

phạt tù từ

ba năm đến mười năm, là tội phạm rất

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 238 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới ba năm tù nhưng không được dưới một năm tù. Nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình

sự, không có tình tiết giảm nhẹ

hoặc nếu có nhưng mức độ

giảm nhẹ

không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.


3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 238 Bộ luật hình sự


Cũng như đối với khoản 2 của điều luật, các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp

phạm tội quy định tại khoản 3 của Điều

236 Bộ luật hình sự, đó là:

vật

phạm pháp có số lượng rất lớn; gây hậu qủa rất nghiêm trọng.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 238 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng, nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp quy định tài khoản 2 của điều luật.


Khi quy định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật cần chú ý:


Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm.


Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.


4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 238 Bộ luật hình sự

Cũng như đối với khoản 3 của điều luật, các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 4 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp

phạm tội quy định tại khoản 4 của Điều

236 Bộ luật hình sự, đó là:

vật

phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 238 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.


Khi quy định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật cần chú ý:


Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới mười lăm năm tù nhưng không được dưới bảy năm tù.


Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật

hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật và người phạm

tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự,

không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến tù chung thân.


5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội


Ngoài hình phạt chính, người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận

chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất chất cháy, chất độc còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.


17. TỘI CHẤT ĐỘC

VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ

QUẢN LÝ CHẤT CHÁY,


Điều 239. Tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc

1. Người nào vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển hoặc mua bán chất cháy, chất độc

gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


Định nghĩa:

Vi phạm quy định về

quản lý chất cháy, chất độc là

hành vi vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất chất cháy, chất độc.


Tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc là tội phạm

được tách từ Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 và tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự và tội vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ quy định tại Điều 237 Bộ luật hình sự.


So với Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 239 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như sau:


Nếu khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “vi phạm quy định về đặt kho, bảo quản, vận chuyển, sử dụng” thì khoản 1 Điều 239 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, mua bán ”.


Bổ sung trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật; tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 nay được quy định tại khoản 3 Điều 239 Bộ luật hình sự năm 1999.


Bỏ trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 của Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985.


Giảm mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 của

Điều 239 xuống còn năm năm (khoản 1 Điều 192 Bộ

luật hình sự

năm

1985 là bảy năm) và tăng mức hình phạt thấp nhất quy định tại khoản 3

của Điều 239 lên bảy năm (khoản 2 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 là năm năm).


A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM


1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm


Tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật

liệu nổ, công cụ

hỗ trợ

quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự và tội vi

phạm quy định về quản lý chất phóng xạ quy định tại Điều 237 Bộ luật

hình sự, chủ

thể

của tội phạm này cũng là chủ

thể

đặc biệt, chỉ những

người có trách nhiệm trong việc quản lý sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc mới có thể là chủ thể của tội phạm này.


2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm


Tội vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc.


Tương tự như đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc, đối tượng tác động của tội phạm này cũng là chất cháy, chất độc.


Khi xác định đối tượng tác động có phải là chất cháy, chất độc hay không các cơ quan tiến hành tố tụng cần tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc trưng cầu giám định.


3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm


a. Hành vi khách quan


Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc.


Hành vi vi phạm quy định về việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo

quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc cũng

tương tự với hành vi vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ. Dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa các tội này là đối tượng tác động.


Khi xác định từng hành vi cụ thể của tội phạm này, cần nghiên cứu kỹ các quy định của Nhà nước về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc.


b. Hậu quả


Hậu quả

của hành vi vi

phạm quy định về quản lý việc sản xuất,

trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành cơ bản. Nếu hành vi vi

phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc chưa gây thiệt hại cho tính

mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm này.


Các thiệt hại về tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác cũng tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự.


c. Các dấu hiệu khách quan khác


Mặc dù điều luật không quy định những dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, để xác định hành vi vi phạm cũng như đối tượng tác động của tội phạm này không thể không nghiên cứu các quy định của Nhà nước về việc quản lý chất cháy, chất độc.


4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm


Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, sửa chữa, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc là do vô ý.


B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ


1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 239 Bộ luật hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 239 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới một năm tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.


2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 239 Bộ luật hình sự.


Khoản 3 Điều 237 Bộ luật hình sự quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình, đó là gây hậu qủa rất nghiêm trọng.


Do chưa có hướng dẫn thế nào là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc gây ra.


Phạm tội thuộc trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng thì người

phạm tội có thể bị nghiêm trọng.

phạt tù từ

ba năm đến mười năm, là tội phạm rất


Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng

nặng không đáng kể

thì có thể

được áp dụng hình phạt dưới ba năm tù

nhưng không được dưới một năm tù; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười năm tù.

Ngày đăng: 22/06/2023