Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 4 Điều 234 Bộ Luật Hình Sự

4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 234 Bộ luật hình sự


Trường hợp phạm tội này tương tự như đối với một số trường hợp phạm tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông, nhà làm luật quy định trong trường hợp vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chăn kịp thời.


Vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chăn kịp thời là trường hợp chưa gây ra hậu quả nhưng lại được xác định trước hậu quả đó là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.


Do chưa xảy ra hậu quả nhưng người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên có ý cho rằng, khoản 4 của Điều 234 Bộ luật hình sự là

cấu thành hình thức, vì không cần có hậu quả xẩy ra tội phạm đã hoàn

thành. Tuy nhiên, hậu quả chưa xẩy ra là do được ngăn chặn chứ không phải do hành vi phạm tội mới đe doạ xâm phạm đến các quan hệ xã hội như đối với các tội phạm có cấu thành hình thức nên tội phạm này vẫn là tội phạm có cấu thành vật chất. Vấn đề là làm sao để xác định được hậu quả dặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời. Ví dụ: Bùi Văn T là thủ kho vật liệu nổ công nghiệp đã không thực hiện đúng các quy định về bảo quản an toàn nên kho vật liệu nỏ bị bốc cháy, nếu không được lực lượng phòng cháy, chữa cháy kịp thời cứu chữa thì kho vật liệu nổ sẽ nổ và thiệt hại vật chất sẽ lên tới hàng tỷ đồng, chưa kể đến các thiệt hại khác.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.

Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 234 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba

năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.

Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 17


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 234 Bộ luật hình sự, nếu người phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định

tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có

nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù.

5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội


Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ năm năm.

một năm đến


Khi áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này cần chú ý: tuỳ thuộc vào nhiệm vụ cụ thể của người phạm tội mà cấm họ đảm nhiệm chức vụ hay cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Ví dụ: A là xã đội trưởng đã giao vũ khí cho người không phải là tự vệ để người này sử dụng vũ khí đó đi săn gây chết người thì A có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ xã đội trưởng từ một năm đến năm năm, còn B là lái xe có nhiệm vụ vận chuyển vật liệu nổ, do không chấp hành các quy định về quản lý vật liệu nổ trong quá trình vận chuyển nên đã để nổ gây thiệt hại đến tính mạng người khác và thiệt hại về tài sản gần một tỷ đồng thì B có thể bị cầm làm nghề lái xe từ một năm đến năm năm.


13. TỘI

THIẾU TRÁCH NHIỆM TRONG VIỆC GIỮ

VŨ KHÍ,

VẬT LIỆU NỔ, CÔNG CỤ TRỌNG

HỖ TRỢ

GÂY HẬU QUẢ

NGHIÊM


Điều 235. Tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu

nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng

1. Người nào được giao vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ mà thiếu trách nhiệm để người khác sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm

trọng, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


Đnh nghĩa: Thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ,

công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi của người được giao vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của Nhà nước để người khác sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác.

Tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm đã được quy định tại Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1985.


So với Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 235 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như sau:


Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định thiếu trách nhiệm

trong việc giữ vũ khí, còn Điều 235 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định

thêm hành vi thiếu trách nhiệm trong việc giữ vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ cũng là hành vi phạm tội.


Ngoài việc quy định thêm đối tượng tác động của tội phạm, Điều 235 Bộ luật hình sự năm 1999 còn bổ sung thêm trường hợp phạm tội gây

hậu quả rất nghiêm trọng là tình tiết định khung hình phạt quy định tại

khoản 2 của điều luật có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm mà Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1985 chứ quy định.


Điều 235 Bộ luật hình sự năm 1999 dùng thuật ngữ “gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ” thay cho thuật ngữ: “làm người chết hoặc bị thương nặng” quy định tại Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1985; bổ sung cụm từ “của người khác”; những thay đổi về thuật ngữ chủ yếu có tính chất học thuật chứ không làm thay đổi các dấu hiệu cấu thành tội phạm này.


Về hình phạt, ngoài việc quy định thêm một khung hình phạt mới

nặng hơn so với Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1985, Điều 235 Bộ luật hình sự năm 1999 còn nâng mức hình phạt cải tạo không giam giữ lên đến ba năm và quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định.


A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM


1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm


Có thể nói chủ thể của tội phạm này cũng là chủ thể đặc biệt, mặc dù người phạm tội không phải bao giờ cũng là người có chức vụ, quyền hạn mà không ít trường hợp họ chỉ là người dân. Tuy nhiên, dù là người có

chức vụ, quyền hạn hay người dân thì họ chỉ có thể trở thàn chủ thể của tội phạm này khi họ được giao vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.


Người từ đủ 16 tuổi trở lên đã có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật. Tuy nhiên, người dưới 16 tuổi rất ít trường hợp được giao vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ nhưng nếu trong trường hợp đặc biệt mà họ được giao vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thì họ vẫn có thể là chủ thể của tội phạm này.


2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm



trợ

Tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ gây hậu quả nghiêm trọng là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của

Nhà nước về việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.


Các quy định về giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ chủ yếu do các cơ quan chủ quản của người được giao vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định trên cở sở những quy định chung của Nhà nước về việc quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ


Đối tượng tác động của tội phạm này là vũ khí, vật liệu nổ hoặc

công cụ hỗ trợ, còn thế nào là vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thì phải căn cứ Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (Ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996).


3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm


a. Hành vi khách quan


Có thể nói, người phạm tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí,

vật liệu nổ, công cụ

hỗ trợ

chỉ

thực hiện hai hành vi khách quan, đó là:

thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và

hành vi để người khác sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ mà mình được giao giữ.


Thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của Nhà nước về việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Ví dụ: Nguyễn

Mạnh Q là sĩ quan cảnh sát được trang bị vũ khí (Súng K54) khi về nhà đã để súng ở bàn, nên con trai của Q là Nguyễn Mạnh T mới 10 tuổi lấy súng này đùa nghịch với bạn cùng lớp làm súng nổ gây chết người. Nếu người được giao giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đã làm hết trách nhiệm nhưng người khác vẫn sử dụng gây hậu quả nghiêm trọng thì người được giao giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đó không bị coi là hành vi phạm tội. Ví dụ: Vũ Quốc H là tự vệ Nhà máy X được giao hai quả thủ pháo để tập luyện; sau khi tập luyện, H đem giao nộp cho Ban chỉ huy tự vệ Nhà

máy nhưng Ban chỉ huy chưa nhận mà nói cứ mang về lúc nào đem nộp

cũng được. H đem hai quả thủ pháo về cất vào tủ khoá lại, nhưng do nhà H bị trộm vào phá tủ lấy đi một số tài sản, trong đó có chiếc túi đựng hai quả thủ pháo khi H và gia đình về quê chịu tang bố chết. Sau khi bị mất trộm, Vũ Quốc H đã báo cáo với Ban chỉ huy tự vệ về việc bị mất trộm hai quả thủ pháo. Kẻ trộm thấy trong số tài sản lấy được có hai quả thủ pháo nên đã đem vứt hai quả thủ pháo ra đống rác, Hồ Văn S 14 tuổi và một số bạn cùng lớp nhặt được đem nghịch làm phát nổ làm S chết tại chố và 2 bạn

của S bị bị thương nặng.


Để người khác sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ mà mình được giao giữ là tạo điều kiện thuận lợi cho người khác sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ mà mình được giao. Hành vi tạo điều kiện có

thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: không cất giữ

cần thận để người khác chiếm hữu, sử dụng định đoạt; chuyển giao cho người khác như cho mượn, cho thuê, nhờ cất hộ; nếu bán cho người khác thì tuỳ thuộc vào đối tượng tác động mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 230, Điều 232 hoặc Điều 233.


b. Hậu quả


Hậu quả

của hành vi

thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật

liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc

của cấu thành tội phạm này; điều này được thể hiện ở ngay tội danh của điều luật. Nếu hành vi thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ,

công cụ

hỗ trợ

chưa gây hậu quả

nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội

phạm. Tuy nhiên, theo điều văn của điều luật thì nhà làm luật không quy định hậu quả chung chung mà quy định những thiệt hại cụ thể được xác định là hậu quả nghiêm trọng, đó là tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm

trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác. Như

vậy hậu quả

nghiêm

trọng của tội phạm này chỉ là những thiệt hại về vật chất mà không bao

gồm những thiệt hại phi vật chất nhưng đối với các trường hợp phạm tội khác.


Cũng như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự, đối với thiệt hại về tính mạng thì đã rõ, còn đối với thiệt hại về sức khoẻ và tài sản thì chỉ

đối với trường hợp

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ

của

người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, nếu gây ra cho nhiều người mà tổng tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người từ 31% trở lên. Đối với thiệt hại về tài sản thì phải có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, mới được coi là gây hậu quả nghiêm trọng.


c. Các dấu hiệu khách quan khác


Cũng như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, nhà làm luật không quy định những dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, để xác định hành vi thiếu trách nhiệm cũng như đối tượng tác động của tội phạm cần phải nghiên cứu Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ

hỗ trợ

(Ban hành theo Nghị

định số

47/CP, ngày 12-8-1996), Nghị

định

27/CP ngày 20-4-1995, Nghị định 02/CP ngày 5-1-1995 của Chính phủ về quản lý, sản xuất, cung ứng và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp.


4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm


Người phạm tội thực hiện hành vi thiếu trách nhiệm trong việc giữ

vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng là do vô ý,

tức là người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả

nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy quả đó.


B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ


1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 235 Bộ luật hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 235 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng đến sức khoẻ, tài sản của người khác, có nhiều tình tiết

giảm nhẹ

quy định tại Điều 46 Bộ

luật hình sự, không có tình tiết tăng

nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; nếu gây thiệt hại làm chết người và còn gây thiệt hại đến sức khoẻ, tài sản nhưng chưa tới mức để truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm

nhẹ

hoặc nếu có nhưng mức độ

giảm nhẹ

không đáng kể, thì có thể bị

phạt đến năm năm tù.


2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 235 Bộ luật hình sự


Khoản 2 của điều luật chỉ

quy định một tình tiết là yếu tố

định

khung hình phạt, đó là phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng.


Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ

hỗ trợ

gây ra nên có thể

vận dụng Thông tư

liên tịch sô 02/2001/TTLT-

TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây ra. Mặc dù điều luật chỉ quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng nhưng nếu gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật nhưng mức hình phạt sẽ phải cao hơn trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu những thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất trên mức hậu quả nghiêm trọng nhưng ở mức thấp được xác định là hậu quả rất nghiêm trọng, có nhiều tình tiết

giảm nhẹ

quy định tại Điều 46 Bộ

luật hình sự, không có tình tiết tăng

nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới ba năm tù; nếu những thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất ở mức cao được xác định là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.


3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội


Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


Cũng như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khi, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, tuỳ thuộc vào nhiệm vụ cụ thể của người phạm tội mà cấm họ đảm nhiệm chức vụ hay cấm hành nghề hoặc công việc nhất định


14. TỘI

SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ

DỤNG,

MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT PHÓNG XẠ


Điều 236. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ

1. Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:

a) Có tổ chức;

b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;

c) Vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới;

d) Gây hậu qủa nghiêm trọng; đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm:

a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;

Xem tất cả 294 trang.

Ngày đăng: 22/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí