Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 239 Bộ Luật Hình Sự

3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 239 Bộ luật hình sự


Khoản 3 Điều 237 Bộ luật hình sự quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình, đó là gây hậu qủa đặc biệt nghiêm trọng.


Cũng như đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định

tại khoản 2 của điều luật, có thể

vận dụng

Thông tư

liên tịch số

02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.

của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc gây ra.


Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 21

Phạm tội thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là

tội phạm rất nghiêm trọng nhưng mức độ khoản 2 của điều luật.

nghiêm trọng cao hơn so với


Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm tù; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.


4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội


Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ năm năm.

một năm đến


18. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY


Điều 240. Tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy

1. Người nào vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản

của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội gây hậu quả đến tám năm.

rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

ba năm

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.

4. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


Đnh nghĩa: Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của Nhà nước về phòng cháy hoặc chữa cháy.


Tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy là tội phạm đã được quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1985.


So với Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như sau:


Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định “gây thiệt hại đến sức khoẻ người khác” thì Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “ gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ người khác”.


Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1985 có 3 khoản và không quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội còn Điều 240 có 4 khoản và quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, trong đó khoản 2 của điều luật là quy định mới với tình tiết là yếu tố định khung hình phạt là “gây hậu quả rất nghiêm trọng”


Về hình phạt cũng như mức hình phạt quy định tại Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với cơ cấu của điều luật và tình hình phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.

Nếu khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm và hình phạt tù từ ba tháng đến ba năm, thì khoản 1 Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm và hình phạt tù từ sau tháng đến năm năm; nếu hình phạt cao nhất quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1985 là mười năm thì mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 240 là mười hai năm.


A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM


1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm


Chủ thể của tội phạm này không là chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự là có thể là chủ thể của tội phạm này.


Người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này do vô ý và không có trường hợp phạm tội nào thuộc trường hợp nào là tội đặc biệt nghiêm trọng.


2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm


Tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy là tội xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về phòng cháy, chữa cháy.

Các quy định về phòng cháy, chữa cháy của Nhà nước ta có tương đối sớm, ngày 27-9-1961 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành pháp lệnh phòng cháy, chữa cháy. Từ những văn bản pháp quy đầu tiên đó, cho đến nay Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản quy định về phòng cháy, chữa cháy cho từng lĩnh vực như: quy định về phòng cháy, chữa cháy ở các công sở, nhà hàng, khách sạn, vũ trường, nhà ga, đường hầm, trên các phương tiện giao thông vận tải…ngày 29-6-2001 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá X Quốc hội đã thông qua Luật phòng cháy, chữa cháy và ngày 04-4-2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng cháy, chữa cháy.

3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm


a. Hành vi khách quan


Có thể nói, hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm

quy định về phòng cháy, chữa cháy. Biểu hiện của hành vi vi phạm là

không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy.


Không thực hiện là không làm những quy định của Nhà nước về

phòng cháy, chữa cháy mà lẽ ra phải làm. Ví dụ: Vũ Văn T là nhân viên bán xăng tại cây xăng số 76 đường quốc lộ 1A. Theo quy định trong khu vực bán xăng cấm hút thuốc lá nhưng trong khi bơm xăng vào bình xăng cho khách hàng, T đã không yêu cầu khách tắt thuốc lá nên đã gây ra cháy toàn bộ cây xăng gây thiệt hại 470.000.000 đồng và làm bị bỏng 3 người với tỷ lệ thương tật của mỗi người đều trên 31%.


Thực hiện không đúng là tuy có thực hiện nhưng thực hiện không

đầy đủ hoặc thực hiện sai các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Ví dụ: Theo quy định thì trong khách sạn tất cả các phòng, các lối đi đều phải có bình chữa cháy, nhưng chủ khách sạn chỉ mua sắm một số bình chữa cháy cho lấy lệ, khi xảy ra hoả hoạn đã không có đủ bình chữa cháy nên khách sạn bị cháy gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tài sản và làm nhiều người bị bỏng nặng.

Theo quy định của Luật phòng cháy chữa, chữa cháy thì biện pháp cơ bản trong phòng cháy, chữa cháy bao gồm: Quản lý chặt chẽ và sử dụng an toàn các chất cháy, chất nổ, nguồn lửa, nguồn nhiệt, thiết bị và dụng cụ sinh lửa, sinh nhiệt, chất sinh lửa, sinh nhiệt; bảo đảm các điều kiện an toàn về phòng cháy; thường xuyên, định kỳ kiểm tra phát hiện các sơ hở,

thiếu sót về phòng cháy và có biện pháp khắc phục kịp thời. Huy động

nhanh nhất các lực lượng, phương tiện để dập tắt ngay đám cháy; tập

trung cứu người, cứu tài sản và chống cháy lan; thống nhất chỉ huy điều hành chữa cháy.

b. Hậu quả


Hậu quả

của hành vi vi

phạm quy định về

phòng cháy, chữa cháy

vừa là dấu hiệu bắt buộc vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Dấu hiệu

này cũng tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý việc sản

xuất, sửa chữa, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự.


c. Các dấu hiệu khách quan khác

Mặc dù điều luật không quy định những dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, để xác định hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy cần phải căn cứ vào

các văn bản do Nhà nước quy định về phòng cháy, chữa cháy (Luật phòng cháy, chữa cháy và Nghị định số 35/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật phòng cháy, chữa cháy); các văn bản quy định về

việc xác định thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương.

4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm


Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy là do vô ý, tức là người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có

thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ

không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy quả đó.


B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ


1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật hình sự


Theo quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy mà gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người

khác có thể bị bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù

từ sáu tháng đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.


Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 234 Bộ luật hình sự điều luật chỉ quy định gây thiệt hại đến tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác. Do đó ngoài thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ và tài sản thì không được coi các thiệt hại nghiêm trọng khác là hậu quả để xác định hành vi phạm tội nếu các thiệt hại đó chưa phải là hậu quả rất nghiêm trọng.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng đến sức khoẻ, tài sản của người khác, có nhiều tình tiết

giảm nhẹ

quy định tại Điều 46 Bộ

luật hình sự, không có tình tiết tăng

nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc dưới sáu tháng tù; nếu gây thiệt hại làm chết người và còn gây thiệt hại đến sức khoẻ, tài sản nhưng chưa tới mức để truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có

tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.


2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 240 Bộ luật hình sự


Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 234 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả rất nghiêm trọng là do hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy gây ra.


Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy gây ra nên có

thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-

BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật

hình sự

năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả

rất nghiêm trọng do

hành vi vi phạm vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy gây ra.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến tám năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Đây cũng là trường hợp cá biệt rất ít thấy trong Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là tám năm.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu những thiệt

hại về

vật chất hoặc phi vật chất trên mức nghiêm trọng nhưng

ở mức

thấp được xác định là hậu quả rất nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm

nhẹ

quy định tại Điều 46 Bộ

luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng

hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới ba năm tù hoặc được chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ; nếu những thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất ở mức cao được xác định là hậu quả rất nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến tám năm tù.


3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 240 Bộ luật hình sự

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định

tại khoản 3 Điều 234 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng là do hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy gây ra và mức hình phạt trong khung hình phạt thấp hơn khoản 3 Điều 234 Bộ luật hình sự.


Khi xác định trường hợp phạm tội này cũng có thể vận dụng Thông tư liên tịch sô 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25

tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối

cao, Bộ

Công an, Bộ Tư

pháp hướng dẫn áp dụng một số

quy định tại

Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối

với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy gây ra.

vi phạm vi


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng nhưng mức hình phạt trong khung hình phạt cao hơn so với khoản 2 của điều luật.


Cũng như trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu những thiệt hại về vật chất

hoặc phi vật chất trên mức hậu quả rất nghiêm trọng nhưng ở mức thấp

được xác định là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm

nhẹ

quy định tại Điều 46 Bộ

luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng

hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm tù; nếu những thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất ở mức cao được xác định là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù.


4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 240 Bộ luật hình sự


Trường hợp phạm tội này tương tự như đối với một số trường hợp phạm tội quy định tại khoản 4 Điều 234 Bộ luật hình sự.


Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy có khả năng thực tế dẫn

đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chăn kịp thời là

trường hợp chưa gây ra hậu quả nhưng lại được xác định trước hậu quả đó là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.


Tương tự

như

đối với các trường hợp khác, chưa xảy ra hậu quả

nhưng người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nên phải nhận thức rằng hậu quả chưa xẩy ra là do được ngăn chặn chứ không phải do hành vi phạm tội mới đe doạ xâm phạm đến các quan hệ xã hội như đối với các tội phạm có cấu thành hình thức.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 240 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam

giữ

đến hai năm hoặc phạt tù từ

ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít

nghiêm trọng.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 240 Bộ luật hình sự, nếu người phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định

tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có

nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình

tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết

giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai năm tù.


5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội


Ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


Người phạm tội có thể chị bị áp dụng một loại hình phạt bổ sung nhưng cũng có thể bị áp dụng tất cả các loại hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 của điều luật.


19. TỘI TRÌNH ĐIỆN

VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ

TOÀN VẬN HÀNH CÔNG



điện

Điều 241.

Tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình

Xem tất cả 294 trang.

Ngày đăng: 22/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí