Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tù Từ Mười Lăm Năm Đến Hai Mươi Năm Hoặc Tù Chung Thân:

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến

năm mươi triệu đồng, phạt quản chế năm năm.

hoặc cấm cư trú từ một năm đến


Đnh nghĩa: Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.

chất phóng xạ

là hành vi làm ra, cất giữ, chuyển

Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 18

dịch, bán hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất phóng xạ.


Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc

chiếm đoạt chất phóng xạ là tội phạm được tách từ tội chế tạo, tàng trữ,

vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất

cháy, chất độc, chất phóng xạ đã được quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985, nay quy định thành 3 tội khác nhau, riêng chất phóng xạ được quy định tại Điều 236, còn chất cháy, chất độc quy định tại Điều 238, còn vật liệu nổ quy định tại Điều 232.


So với Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 236 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung sau:


Nếu Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 dùng thuật ngữ “chế tạo” là hành vi khách quan thì Điều 236 Bộ luật hình sự năm 1999 dùng thuật ngữ “sản xuất”; về bản chất tuy không khác nhau nhưng về mặt học thuật thì dùng thuật ngữ “sản xuất” chính xác hơn đối với đối tượng là chất phóng xạ; bổ sung hành vi “vận chuyển” là hành vi phạm tội mà Điều 96 chưa quy định.


Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 có 3 khoản, còn Điều 236 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 5 khoản trong đó khoản 5 của điều luật

quy định hình phạt bổ sung; hình phạt quy định trong từng khoản cũng

được quy định lại cho phù hợp với tính chất của hành vi và đối tượng tác

động của tội phạm; (khung hình phạt

ở khoản 1 là từ hai năm đến

bảy

năm, ở khoản 2 là từ năm năm đến mười hai năm; của khoản 3 là từ mười

năm đến mười lăm năm; của khoản 4 là từ mười năm hoặc tù chung thân).

lăm năm đến hai mươi


Điều 236 Bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt

như:

vận chuyển, sử

dụng, mua bán qua biên giới; vật phạm pháp có số

lượng rất lớn, đặc biệt lớn; gây hậu quả nghiêm trọng;

rất nghiêm trọng, đặc biệt


Bỏ tình tiết “phạm tội rong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” là

yếu tố định khung hình phạt.


A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM


Do được tách từ tội “chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép

hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chát độc, chất phóng xạ” nên các dấu

hiệu cơ

bản của tội phạm này cũng tương tự như đối với tội “chế

tạo,

tàng trữ, vận chuyển, sử dụng mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu

nổ” quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ đối tượng tác

động của tội phạm này là chất phóng xạ chứ không phải là vật liệu nổ. Do đó khi phân tích các dấu hiệu cơ bản của tội phạm này chúng tôi chỉ nêu

những dấu hiệu khác nhau giữa tội phạm này với tội

“chế

tạo, tàng trữ,

vận chuyển, sử dụng mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ”.


1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm


Chủ thể của tội phạm này hoàn toàn tương tự với chủ thể của “chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ”. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3

và khoản 4 của điều luật; người từ đủ

16 tuổi trở

lên phải chịu trách

nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.


2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm


Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất phóng xạ.

Đối tượng tác động của tội phạm này là chất phóng xạ. Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân, gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hoá học có khả năng phát ra các chùm tia An-pha, Bê-ta, Gam-ma... Tác hại đặc trưng của chất phóng xạ là gây bệnh, phóng xạ đối với người và động vật.


Khi xác định đối tượng tác động có phải là chất phóng xạ hay không

các cơ

quan tiến hành tố

tụng cần tham khảo ý kiến của các cơ

quan

chuyên môn hoặc trưng cầu giám định.


3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm


a. Hành vi khách quan


Người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán

trái phép hoặc chiếm đoạt

chất phóng xạ

thực hiện hành vi khách quan

hoàn toàn tương tự như đối với người phạm các tội quy định tại các Điều 230, 232, 233 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với Điều 236 Bộ luật hình sự thay thuật ngữ “chế tạo” bằng thuật ngữ “sản xuất”, về bản chất không có gì khác nhau nhưng về học thuật thì đối với chất phóng xạ mà dùng thuật

ngữ

“chế

tạo” là không chính xác nên nhà làm luật dùng thuật ngữ “sản

xuất”, vì chỉ có thể nói sản xuất chất phóng xạ không ai nói chế tạo chất phóng xạ.


b. Hậu quả


Hậu quả của hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ cũng không phải là dấu hiệu

bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần

thiết. Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.


c. Các dấu hiệu khách quan khác


Tương tự như đối với các tội quy định tại các Điều 230, 232 và 233 Bộ luật hình sự, nếu việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng chất

phóng xạ được phép thì không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại

Điều 236 Bộ luật hình sự.

Việc xác định hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán có trái phép hay không, cần căn cứ vào quy định của Nhà nước về sản xuất, quản lý, sử dụng, vận chuyển, mua bán chất phóng xạ.


4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm


Người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ là do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái phép (trừ hành vi chiếm đoạt) nhưng vẫn thực hiện.


Nếu vì lý do nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc không buộc phải nhận thức được hành vi của mình là trái phép thì không thuộc trường hợp phạm tội này.


B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ


1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 236 Bộ luật hình sự


Theo quy định tại khoản 1 Điều 236 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng.


Khoản 1 của điều luật tuy không quy định số lượng chất phóng xạ

làm căn cứ

truy cứu trách nhiệm hình sự, tại

Thông tư

liên ngành số

01/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã hướng dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng không hướng dẫn số lượng bao

nhiêu chất phóng xạ

thì bị

truy cứu trách nhiệm hình sự

theo khoản 1,

khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985. Thực tiễn xét xử cũng rất ít gặp trường hợp phạm tội này. Vì vậy, nếu tội phạm này xảy ra các cơ quan tiến hành tố tụng cần căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự và các quy định của Nhà nước về quản lý chất phóng xạ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra để xác định hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ đã cấu thành tội phạm chưa và nếu đã cấu thành tội phạm thì thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới hai năm tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù.


2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 236 Bộ luật hình sự


Các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của các

Điều 230, 232 và 233 Bộ luật hình sự bao gồm: phạm tội có tổ chức; vật

phạm pháp có số lượng lớn; vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới; gây hậu qủa nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm. Chỉ khác ở chỗ đối tượng tác động của tội phạm này là chất phóng xạ chứ không phải vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ hoặc vật liệu nổ.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 236 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới năm năm tù nhưng không được dưới hai năm tù. Nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình

sự, không có tình tiết giảm nhẹ

hoặc nếu có nhưng mức độ

giảm nhẹ

không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù.


3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 236 Bộ luật hình sự


Cũng như đối với khoản 2 của điều luật, các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp

phạm tội quy định tại khoản 3 của các Điều 230, 232 Bộ luật hình sự bao

gồm: vật phạm pháp có số lượng rất lớn; gây hậu qủa rất nghiêm trọng.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 236 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng, nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp quy định tài khoản 2 của điều luật.


Khi quy định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật cần chú ý:


Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới mười năm tù nhưng không được dưới năm năm.


Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật

hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.


4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 236 Bộ luật hình sự


Cũng như đối với khoản 3 của điều luật, các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 4 của điều luật hoàn toàn tương tự với các trường hợp

phạm tội quy định tại khoản 4 của các Điều 230, 232 Bộ luật hình sự bao

gồm:

vật phạm pháp có số

lượng đặc biệt lớn; gây hậu quả

đặc biệt

nghiêm trọng.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 236 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.


Khi quy định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật cần chú ý:

Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới mười lăm năm tù nhưng không được dưới mười năm tù.


Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật

hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật và người phạm

tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự,

không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến tù chung thân.


5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội


Ngoài hình phạt chính, người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận

chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.


15. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT PHÓNG XẠ


Điều 237. Tội vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ

1. Người nào vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất phóng xạ, có

khả

năng thực tế

dẫn đến hậu quả

nghiêm trọng nếu không được ngăn

chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội trong trường hợp gây thiệt hại cho tính mạng, sức khoẻ của người khác, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

3. Phạm tội gây hậu qủa rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội gây hậu qủa đặc biệt nghiêm trọng thì bị mười lăm năm đến hai mươi năm.

phạt tù từ

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


Đnh nghĩa: Vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ là hành vi vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất phóng xạ.

Tội vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ là tội phạm được tách từ Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 và tương tự như đối với tội vi phạm quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 234 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm nên cấu thành cơ bản của tội phạm này nhà làm luật

quy định hành vi vi phạm mới có khả

năng thực tế

dẫn đến hậu quả

nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời là tội phạm đã hoàn thành

nhưng cũng tương tự

như

đối với các trường hợp quy định tại khoản 4

Điều 234 Bộ luật hình sự tội phạm này không phải là cấu thành hình thức.


So với Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 237 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung như sau:


Các tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 3 của Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 được sưa đổi lại thành tình tiết định tội quy định tại khoản 1 Điều 237 Bộ luật hình sự 1999.


Nếu khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “vi phạm quy định về đặt kho, bảo quản, vận chuyển, sử dụng” thì khoản 1 Điều 237 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, mua bán ”.


Nếu khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm thì các thiệt hại này được quy định tại khoản 2 của Điều 237 Bộ luật hình sự 1999 là cấu thành tăng nặng chứ không còn là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này nữa.


Bổ sung trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 3 của điều luật; tình tiết gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 nay được quy định tại khoản 3 Điều 237 Bộ luật hình sự năm 1999.


Tăng mức cao nhất của tội phạm này lên đến hai mươi năm tù mà Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định mức cao nhất của tội phạm này là mười lăm năm tù; quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định đối với tội phạm này.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/06/2023