Cơ chế quản lý là phương thức mà nhờ nó hoạt động quản lý được diễn ra, quan hệ tương tác giữa chủ thể và khách thể quản lý được thực hiện (vận hành và phát triển).
- Để thực hiện quá trình quản lý phải có các điều kiện , phương tiện quản lý. Đó không chỉ là máy móc, kỹ thuật mà còn là nhân cách của nhà quản lý (phẩm chất, năng lực).
Hiệu quả quản lý là sản phẩm kép, nghĩa là trong quá trình quản lý, đối tượng quản lý phát triển và phẩm chất năng lực của nhà quản lý cũng phát triển.
Hoạt động quản lý có thể được sơ đồ hóa như sau :
b. Bản chất của hoạt động quản lý và các chức năng quản lý:
* Bản chất của hoạt động quản lý:
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý các trường trung học phổ thông tỉnh Đồng Nai - 1
- Biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý các trường trung học phổ thông tỉnh Đồng Nai - 2
- "tạo Ra Cái Có Giá Trị Tinh Thần, Có Nội Dung Nào Đó".
- Người Cán Bộ Quản Lý Trường Trung Học Phổ Thông.
- Thực Trạng Đội Ngũ Cán Bộ Quản Lý Trường Trung Học Phổ Thông Tình Đồng Nai.
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
- Từ khi con người biết hợp tác với nhau để tự vệ và mưu sinh cuộc sống thì nó xuất hiện những yếu tố khách quan, những họat động tổ chức, phối hợp, điều hành . . .để thực hiện mục tiêu, tạo nên sức mạnh giúp cho con người đạt được những mục tiêu cần thiết. Như vậy, trong quá trình vận động, phát triển của xã hội và quản lý không thể tách rời nhau, khi lao động đạt
17
tới một trình độ nhất định, có sự phân công xã hội thì quản lý như là một chức năng, đó là tất yếu khách quan.
- Trong một tổ chức nhóm, cộng đồng, chủ thể quản lý tác động có định hướng, có chủ đích đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục đích. Những tác động qua lại đó có tác động lan tỏa rộng rãi. Trong xã hội có giai cấp thì hoạt động quản lý phục vụ quyền lợi của giai cấp, do vậy hoạt động quản lý mang tính giai cấp rõ rệt.
- Hoạt động quản lý mang tính khoa học cao, bởi sự tác động giữa chủ thể quản lý đến khách thể quản lý thông qua công cụ, phương tiện, phương pháp phù hợp với quy luật khách quan thì mới đạt được hiệu quả.
- Quản lý được coi là một nghề. Những kỹ năng nghề nghiệp của người quản lý để thực hiện công việc đòi hỏi mang tính kỹ thuật, thể hiện ở những thao tác nghề nghiệp của người quản lý.
- Hoạt động quản lý vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật của hoạt động quản lý thể hiện những tác động hợp quy luật, hoàn cảnh.
Vậy, "hoạt động quản lý vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan vì được thực hiện bởi người quản lý. Mặt khác, nó vừa có tính giai cấp lại vừa có tính kỹ thuật, vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính pháp luật Nhà nước lại vừa có tính xã hội rộng rãi
...Chúng là những mặt đối lập trong một thể thống nhất. Đó là biện chứng, là bản chất của hoạt động quản lý". (29;62)
* Các chức năng quản lý :
- Henry Fayol coi "Chức năng quản lý là nhóm hoạt động phải hoàn thành để quản lý”. "Chức năng quản lý là loại hình đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của tiến
trình phân công lao động và chuyên môn hóa việc quản lý” (21;64)
- Chức năng quản lý là những nội dung và phương thức hoạt động cơ bản mà nhờ đó chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý trong quá trình quản lý, nhằm thực hiện mục tiêu quản lý.
18
lý.
Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý tạo nên nội dung của quá trình quản lý.
Chức năng quản lý được qui định một cách khách quan bởi hoạt động của khách thể quản
- Có nhiều cách phân loại các chức năng quản lý.
+ Henry Fayon đã đưa ra 5 chức năng sau đây mà người ta gọi là 5 yếu tố của Fayon :kế
hoạch hóa, tổ chức, ra lệnh, phối hợp, kiểm tra và đánh giá.
+Trong quyển "Cơ sở của khoa học quản lý" của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, xuất bản năm 1997, có nêu các chức năng cơ bản của quản lý gồm:
. Kế hoạch hóa
. Tổ chức
. Phối hợp
. Điều chỉnh, kích thích
. Kiểm tra, hạch toán.
- Sau khi gộp một số chức năng lại, người ta cho rằng quản lý có 4 chức năng cơ bản là 4 khâu có liên quan mật thiết với nhau, đó là :
. Kếhoạch hóa: Kế hoạch hóa là làm cho việc thực hiện có kế hoạch trên diện rộng, quy mô lớn. Căn cứ vào thực trạng và dự định của tổ chức để xác định mục tiêu, mục đích, xác định những biện pháp trong thời kỳ nhằm đạt mục tiêu dự định.
. Tổ chức: Là quá trình hình thành nên những cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, bộ phận nhằm đạt mục tiêu kế hoạch. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp điều phối các nguồn lực, vật lực, nhân lực.
. Chỉ đạo: Đó chính là phương thức tác động của chủ thể quản lý. Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác, động viên họ hoàn thành nhiệm vụ để đạt mục tiêu của tổ chức.
. Kiểm tra: Thông qua một cá nhân, nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế, theo dõi giám sát thành quả hoạt động, tiến hành uốn nắn, sửa chữa những hoạt động sai. Đây chính là quá trình tự điều chỉnh của hoạt động quản lý.
Với các chức năng đó, quản lý có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Nó nâng cao hiệu quả của hoạt động,đảm bảo trật tự, kỷ cương trong bộ máy và nó là nhân tố tất yếu của sự phát triển.
c. Mục tiêu quản lý:
Mục tiêu quản lý thể hiện ý chí của nhà quản lý ( chủ thể ) đồng thời phải phù hợp với sự vận động và phát triển của các yếu tố có liên quan. Các yếu tố có liên quan đến quản lý là :
- Yếu tố xã hội - môi trường: Là yếu tố con người cùng với hoàn cảnh của họ. Trong quản lý phải nắm đặc điểm chung nhất của con người. Đó là những đặc điểm : tâm sinh lý, lứa tuổi, giới tính... đặc biệt về đặc điểm dân tộc, giai cấp, đặc điểm vùng miền, địa phương.
- Yếu tố chính trị - pháp luật: là chế độ chính trị, chế độ sở hữu và hệ thống luật pháp liên quan tới cơ chế quản lý.
- Yếu tố tổ chức: Là sự thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận, thành phần trong một bộ máy, qui định quyền hạn, trách nhiệm, chức năng của các bộ phận và thành phần trong bộ máy. Trong đó tổ chức nhân sự vẫn là vấn đề cốt lõi.
- Yếu tố quyền uy: Quyền uy chính là quyền lực và uy tín của nhà quản lý. Đây là cổng cụ đặc biệt của nhà quản lý. Quyền uy vừa do cơ chế quản lý vừa do nhân cách của nhà quản lý tạo nên.
- Yếu tố thông tin: Đó vừa là tin tức vừa là mối liên hệ (liên lạc), thông tin là cơ sở giúp nhà quản lý đề ra các quyết định để tác động tới đối tượng quản lý. Thông tin đầy đủ, chính xác thì tác động quản lý sẽ có hiệu quả.
Quản lý hành chính Nhà nước là một dạng quản lý mang tính chất quyền lực Nhà nước do các cơ quan Nhà nước sử dụng quyền lực để điều chỉnh quan hệ xã hội và hành vi con người.
Tóm lai, quản lý là sự tác động có ý thức để điều khiển, hướng dẫn các quá trình và các hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đúng với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với các qui luật khách quan.
1.1.3. Quản lý giáo dục.
a. Khái nỉệm Quản lý giáo dục:
* Nhà nước quản lý mọi mặt hoạt động, trong đó có hoạt động giáo dục. Vậy Quản lý Nhà nước về giáo dục là tập hợp những tác động hợp qui luật được thể chế hóa bằng pháp luật của chủ thể quản lý nhằm tác động đến các phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.
- Theo M.I.Kônđacốp : "Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch , có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất ca các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường ) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội cưng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý của trẻ em" (32; 10 )
- Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường, Quản lý giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm cua mình, tức ỉa đưa nhà trường vạn hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục và thế hệ trẻ và đối với từng học sinh." (22; 34)
- Theo Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái về chất " (27; 35)
- Tiến sĩ Nguyễn Gia Quý khái quát "Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân" (28;l2)
* Khái niệm về quản lý giáo dục, cho đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng cơ bản đều thống nhất với nhau về nội dung, bản chất.
- "Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội". ( 17; 3)
* Quản lý giáo dục bao gồm:
- Chủ thể quản lý: Bộ máy quản lý giáo dục các cấp.
- Khách thể quản lý: Hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học.
- Quan hệ quản lý: Đó là những mối quan hệ giữa người học và người dạy; quan hệ giữa người quản lý với người dạy, người học; quan hệ người dạy-người học; quan hệ giữa giáo giới
– cộng đồng . . . Các mối quan hệ đó có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất lượng hoạt động của nhà trường, của toàn bộ hệ thống giáo dục.
* Xét về khoa học thì quản lý giáo dục là sự điều khiển toàn bộ những hoạt động của cả cộng đồng, điều khiển quá trình dạy và học nhằm tạo ra những thế hệ có đức, có tài phục vụ sự phát triển của xã hội.
* Xét về bản chất, quản lý giáo dục là một hiện tượng xã hội được thể hiện các mặt:
- Quản lý giáo dục là một loại hình hoạt động, tuy chuyên biệt nhưng ảnh hưởng đến toàn xã hội, mọi quyết định, thay đổi của giáo dục đều có ảnh hưởng đến đời sống xã hội.
- Quản lý giáo dục là loại hình quản lý được đông đảo thành viên tham gia.
- Bản thân quản lý giáo dục là hoạt động mang tính xã hội, đòi hỏi phải huy động nhân lực, nguồn lực lớn.
- Giáo dục truyền đạt, lĩnh hội những giá trị kinh nghiệm lịch sử xã hội tích lũy qua các thế hệ. Xã hội muốn tồn tại, phát triển thì phải phát triển giáo dục - đào tạo.
* Nội dung quản lý giáo dục bao gồm một số vấn đề cơ bản : xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; ban hành , tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn cơ sở vật chất thiết bị trường học; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên; huy động quản lý sử dụng các nguồn lực.
Như vậy, "Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức, cán bộ, kế hoạch hóa...) nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thổng cả về mặt sốĩượng cũng như chất lượng". (33; 93)
Lý luận quản lý giáo dục có vai trò trọng yếu trong việc hình thành cơ sở khoa học của :
- Chiến lược phát triển giáo dục, sự hình thành và phát triển cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.
- Các chính sách phát triển giáo dục, đòn bẫy kinh tế trong giáo dục, định mức kinh tế - sư phạm.
- Bộ máy quản lý giáo dục ở các cấp từ trung ương đến cơ sở đảm bảo thống nhất quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục.
Trong quản lý giáo dục, việc xác định các mục tiêu, mục đích giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu xác định không đúng mục tiêu, mục đích trong công tác quản lý giáo dục sẽ gây ra những tổn thất lớn lao và để lại những hậu quả nặng nề.
b. Chức năng Quản lý giáo dục:
* Cũng như các hoạt động quản lý kinh tế- xã hội, quản lý giáo dục có hai chức năng tổng quát sau :
- Chức năng ổn định, duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện hành của nền kinh tế
- xã hội.
- Chức năng đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu tiến bộ kinh tế - xã hội. Như vậy, quản lý giáo dục là hoạt động điều hành các nhà trường để giáo dục vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế.
* Từ hai chức năng tổng quát trên, quản lý giáo dục phải quán triệt, gắn bó với bốn chức năng cụ thể là :
- Kế hoạch hóa.
- Tổ chức.
- Chỉ huy điều hành.
- Kiểm tra.
* Hệ thống quản lý giáo dục nhà trường hoạt động trong động thái đa dạng, phức tạp. Quản lý giáo dục là quản lý các mục tiêu vừa tường minh vừa trong mối tương tác của các yếu tố chủ đạo :
- Mục tiêu đào tạo.
- Nội dung đào tạo.
- Phương pháp đào tạo.
- Lực lượng đào tạo.
- Đối tượng đào tạo.
- Hình thức tổ chức đào tạo.
- Điều kiện đào tạo.
- Môi trường đào tạo.
- Quy chế đào tạo.
- Bộ máy tổ chức đào tạo.
Quản lý giáo dục chính là quá trình xử lý các tình huống có vấn đề phát sinh trong hoạt động tương tác của các yếu tố trên, để nhà trường phát triển, đạt tới chất lượng tổng thể bền vững, làm cho giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh của nền kinh tế.
1.1.4. Quản lý trường học.
a. Trường học:
Trường học là một bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ thống Giáo dục quốc dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm của nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng, phức tạp khác đều hướng vào hoạt động trung tâm nay. Do vậy, quản lý trường học nói chung và quản lý trường Trung học phổ thông nói riêng thực chất là: "Quản lý hoạt động dạy - học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái nấy sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục" (27; 35).
Theo PGS.Đặng Quốc Bảo "Trường học là một thiết chế xã hội trong đó diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố Thầy - trò. Trường học là một bộ