Nhu Cầu Hoàn Thiện Pháp Luật Hình Sự Và Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Biện Pháp "trả Lại Tài Sản, Sửa Chữa Hoặc Bồi Thường Thiệt Hại"

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ ÁP DỤNG


3.1. NHU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI"

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề hàng đầu được các quốc gia chú trọng đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng nhằm tạo một hành lang pháp lý thuận lợi, đảm bảo mọi quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bởi pháp luật. BLHS năm 1999 và BLTTHS năm 2003 là công cụ pháp luật hữu hiệu và sắc bén trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, nền kinh tế hội nhập ngày càng phát triển thì nhu cầu sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật là cần thiết.

Ngoài ra, trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và hoàn thiện hơn nữa các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm trong đó biện pháp hữu hiệu nhất, quan trọng nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng. GS.TSKH Lê Cảm đã nhận định về việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật hình sự chính là một trong nhiều yếu tố cơ bản "mà nếu như thiếu nó thì việc xây dựng Nhà nước pháp quyền không thể thành công vì các quy định của pháp luật hình sự chính là những căn cứ pháp lý quan trọng nhất của Nhà nước pháp quyền" [3, tr. 70].

Đặc biệt vấn đề này Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" đã nhận định: Nhìn chung, hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống; cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng, đổi mới, hoàn thiện; chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao… Do đó, Nghị quyết cũng đã đề xuất mục tiêu, định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch…; hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm theo hướng xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp luật là nòng cốt, phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm; hoàn thiện chính sách hình sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa.

Đặc biệt, qua quá trình áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" đã thấy rõ vai trò quan trọng của biện pháp này trong quá trình giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, cũng chính từ hoạt động thực tiễn áp dụng biện pháp đó cho thấy đã phát sinh một số quy định không phù hợp cần phải được sửa đổi, bổ sung để nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.


3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI"

3.2.1. Hoàn thiện quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999

* Về khoản 1 Điều 42 BLHS năm 1999

Trong BLHS năm 1999 và BLTTHS năm 2003 của nước ta có 3 điều luật cùng quy định về trả lại tài sản bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, trong đó có 2 điều trong luật nội dung và 1 điều trong luật hình thức: khoản 2 Điều 41, khoản 1 Điều 42 BLHS và điểm b khoản 2 Điều 76

BLTTHS; điều này đã dẫn đến sự lúng túng của các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng điều luật (đã nêu trong phần thực tiễn của luận văn).

Tuy nhiên, ba điều luật quy định về đối tượng là tài sản được trả lại không hoàn toàn trùng khớp.

Khoản 2 Điều 41 BLHS và điểm b khoản 2 Điều 76 BLTTHS đều xác định: Trả lại tài sản bị chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Nhưng khoản 1 Điều 42 chỉ quy định: Trả lại tài sản đã bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Như vậy, có thể thấy nếu trường hợp người phạm tội sử dụng trái phép tài sản thì không thuộc trường hợp điều chỉnh của khoản 1 Điều 42 BLHS vậy phải áp dụng khoản 2 Điều 41 BLHS. Nhưng như phần trên của luận văn đã phân tích, việc quy định việc trả lại tài sản theo khoản 2 Điều 41 như một nguyên tắc trong quá trình tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm "Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp" [27], đồng thời có thể hiểu trong số tất cả những tài sản đã tịch thu trước đó nếu xác định có tài sản là đối tượng bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thì sẽ trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Như vậy, nếu tài sản bị người phạm tội sử dụng trái phép mà chưa bị tịch thu thì không có căn cứ nào của BLHS để trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp cả. Còn quy định điểm b khoản 2 Điều 76 BLTTHS chỉ là quy định của luật hình thức. Do đó, để tránh trường hợp thực tế xảy ra mà không được BLHS điều chỉnh, cần bổ sung thêm quy định đối tượng tài sản bị người phạm tội sử dụng trái phép vào khoản 1 Điều 42 BLHS.

Mặt khác, việc quy định nội dung trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tại hai biện pháp tư pháp khác nhau xét về hình thức chưa được phù hợp.

Hơn nữa, cả hai điều luật đều thể hiện quy tắc chung là tài sản bị chiếm đoạt trong mọi trường hợp đều được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản

lý hợp pháp. Chính vì vậy nếu nội dung này được quy định tại một điều luật sẽ hợp lý và bao quát hơn.

Từ các phân tích trên đây, chúng ta nên bỏ quy định tại khoản 2 Điều 41 BLHS và khoản 1 Điều 42 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Bảng 3.1: Đề nghị sửa đổi khoản 2 Điều 41 BLHS và khoản 1 Điều 42


BLHS năm 1999

Đề nghị sửa đổi, bổ sung

Điều 41: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm.

"1. Việc tịch thu, sung quỹ Nhà nước được áp dụng đối với:

a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;

b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có;

c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.

2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.

3. Vật, tiền thuộc tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu, sung quỹ

Nhà nước.

Điều 41: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm.

"1. Việc tịch thu, sung quỹ Nhà nước được áp dụng đối với:

a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;

b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có;

c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.


2. Vật, tiền thuộc tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu, sung quỹ

Nhà nước.

Điều 42: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi

thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi

1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành

vi phạm tội gây ra.

Điều 42: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi

thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi.

1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất

đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Biện pháp tư pháp - Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo Bộ luật hình sự năm 1999 - 12

Nguồn: Tác giả luận văn đề xuất.

* Về khoản 2 Điều 42 BLHS năm 1999

Như phần chương 2 của luận văn đã đề cập, thực chất Điều 42 BLHS năm 1999 quy định hai biện pháp tư pháp: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại - khoản 1 và Buộc công khai xin lỗi - khoản 2. Mỗi một biện pháp có vai trò khác nhau, đối tượng và trường hợp áp dụng khác nhau. Vì vậy để dễ dàng cho việc áp dụng đồng thời nâng cao vai trò của từng biện pháp, theo chúng tôi cần tách biện pháp buộc công khai xin lỗi ra một điều luật riêng khỏi Điều 42.

Khoản 2 Điều 42 BLHS năm 1999 quy định: "2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại" [27]. Tuy nhiên, nội dung bồi thường thiệt hại đã được quy định trong khoản 1 điều luật này bao gồm cả những trường hợp gây thiệt hại về vật chất và những trường hợp gây thiệt hại về tinh thần (vì nguyên tắc gây thiệt hại thì phải bồi thường). Do đó, theo chúng tôi nội dung bồi thường thiệt hại không cần thiết phải đề cập đến trong khoản 2 Điều 42 nữa. Từ đó khi tách khoản 2 Điều 42 ra thành một điều luật riêng có thể theo nội dung sau: "2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội công khai xin lỗi người bị hại".

Tóm lại, Điều 42 BLHS năm 1999 kiến nghị sửa đổi như sau:

Bảng 3.2: Đề nghị sửa đổi Điều 42 BLHS năm 1999


BLHS năm 1999

Đề nghị sửa đổi, bổ sung

Điều 42: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi

thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi.

1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.


2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.

Điều 42: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;

Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Điều X: Buộc công khai xin lỗi.

Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội công khai xin lỗi người bị hại.

Nguồn: Tác giả luận văn đề xuất.

3.2.2. Hoàn thiện một số quy định pháp luật hình sự có liên quan đến

áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"

* Về thủ tục xác định chủ sở hữu đối với tài sản:

Theo quy định người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Vấn đề đặt ra ở đây là việc xác định chủ sở hữu đối với tài sản như thế nào đối với những trường hợp: các vụ án về xâm phạm sở hữu, các vụ án mang tính chiếm đoạt khác, người phạm tội khai nhận đã chiếm đoạt được tài sản của người khác nhưng không biết người đó là ai, Cơ quan điều tra đã thu giữ được tài sản và áp dụng biện pháp xác định chủ sở hữu. Biện pháp xác định chủ sở hữu đối với vật chứng trong vụ án hình sự hiện nay là thông báo trong một thời hạn nhất định; hình thức thông báo là bằng việc niêm yết tờ thông báo tại cơ quan ra thông báo (thường là do Cơ quan điều tra thực hiện); trường hợp vật chứng có giá trị lớn như ôtô, tàu, thuyền, tiền, vàng v.v... kèm theo các loại giấy tờ quan trọng mới thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.

Bộ luật tố tụng hình sự không quy định về trình tự, thủ tục, biện pháp và thẩm quyền xác định chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp vật chứng, cho nên trong thực tiễn, Cơ quan điều tra ra thông báo tìm chủ sở hữu và thời hạn thông báo là không thống nhất. Có Cơ quan điều tra ra thông báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm; có Cơ quan điều tra lại thông báo với thời hạn tương ứng với thời hạn điều tra đối với loại tội phạm đang tiến hành điều tra (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) bao gồm cả việc gia hạn. Khi hết thời hạn điều tra Cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng với vật chứng.

Việc thông báo tìm chủ sở hữu đối với vật chứng của Cơ quan điều tra như đã nói trên không thống nhất với quy định của BLDS; trong BLDS có quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với vật không xác định được chủ

sở hữu; đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm; bị đánh rơi, bỏ quên. Vì vậy, khi trả lại tài sản cho chủ sở hữu, Cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào đối tượng tài sản đó thuộc loại nào, đó là vật không xác định được chủ sở hữu hay vật bị chôn giấu, chìm đắm, bị đánh rơi, bỏ quên để xác định có cần phải ra thông báo tìm chủ sở hữu hay không? Cụ thể:

+ Đối với tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tài sản bị đánh rơi, bỏ quên mà người phạm tội nhặt được nhưng chưa xác định được ai là chủ sở hữu thì Cơ quan điều tra phải làm thông báo tìm chủ sở hữu;

+ Đối với những tài sản là vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, được người phạm tội tìm thấy và đây thường là tài sản ở các vụ án sử dụng (chiếm giữ) trái phép tài sản, thì Cơ quan điều tra không phải thông báo tìm chủ sở hữu; nếu vật chứng đó là di tích lịch sử, văn hóa thì sung quỹ Nhà nước; nếu vật chứng là những tài sản thông thường thì căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 240 BLDS, Tòa án tịch thu phần tài sản còn lại sau khi đã trích trừ phần chi phí bảo quản, tìm kiếm và giá trị phần tài sản người phạm tội được hưởng theo quy định tại Điều 239 BLDS.

Theo các quy định tại Điều 239 BLDS thì thời hạn thông báo để tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đối với vật chứng là một năm, kể từ ngày thông báo công khai; thời hạn này là bắt buộc, vì vậy việc thông báo tìm chủ sở hữu tài sản là vật chứng của vụ án với thời hạn trên hoặc dưới một năm là không đúng với quy định của pháp luật.

Hiện nay, theo quy định của BLDS năm 2005 và BLTTHS năm 2003, thì thời hạn thông báo tìm chủ sở hữu và thời hạn tố tụng đối với vụ án từ lúc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là không giống nhau, do vậy, trong thực tiễn xẩy ra các trường hợp sau:

Trường hợp 1: Đến ngày mở phiên tòa, thời hạn thông báo tìm chủ sở hữu tài sản là vật chứng đã hết nhưng không tìm được chủ sở hữu.

Trường hợp 2: Đến ngày mở phiên tòa mà thời hạn thông báo tìm chủ sở hữu tài sản là vật chứng vẫn còn và không tìm được chủ sở hữu.

Đối với trường hợp 1, không có khó khăn, vướng mắc gì trong thực tiễn xét xử; khi xét xử các vụ án có loại vật chứng nói trên, Hội đồng xét xử chỉ căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 76 BLTTHS để quyết định sung quỹ Nhà nước. Nếu đến ngày bản án có hiệu lực pháp luật mà có người đến nhận là chủ sở hữu của vật chứng đã được Tòa án tuyên sung quỹ Nhà nước, thì đây là trường hợp tranh chấp quyền sở hữu vật chứng, vì vật chứng đã được xác lập chủ sở hữu mới là Nhà nước; trường hợp này buộc đương sự phải thực hiện việc khởi kiện dân sự để giải quyết tranh chấp quyền sở hữu theo quy định tại khoản 4 Điều 76 BLTTHS, thủ tục kiện đòi tài sản theo quy định của BLTTDS năm 2004.

Đối với trường hợp 2, khi thời hạn tố tụng sắp hết (sắp hết thời hạn chuẩn bị xét xử) thì buộc Tòa án phải ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và mở phiên tòa hình sự sơ thẩm vì không có một quy định nào của pháp luật cho phép kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử để chờ hết thời hạn thông báo tìm chủ sở hữu của vật chứng; trong trường hợp này, khi ra bản án, Hội đồng xét xử quyết định xử lý vật chứng thế nào?

Hiện nay, có quan điểm cho rằng, Hội đồng xét xử "... quyết định thông báo công khai một thời hạn mà thời hạn này cộng với thời hạn đã thông báo trước đó là đủ một năm. Ngày tính để thông báo là ngày tiếp theo với ngày cuối cùng của thời hạn đã thông báo trước" [11, tr. 4-5].

Ví dụ: Cơ quan điều tra ra thông báo tìm chủ sở hữu đối với tài sản bị chiếm đoạt của vụ án thời hạn là 9 tháng, đến ngày 30/6/2013 là chấm dứt thời hạn thông báo, phiên tòa được mở vào ngày 20/5/2013. Trường hợp này, Hội đồng xét xử quyết định thông báo công khai với thời hạn ba tháng, kể từ ngày 01/7/2013.

Chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm trên, tuy nhiên, cách diễn đạt trong quyết định của bản án thế nào đề nghị cấp có thẩm quyền hướng dẫn cụ

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí