Biện pháp tư pháp - Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo Bộ luật hình sự năm 1999 - 13

thể hơn. Theo chúng tôi, từ ví dụ đã nêu trên, thì cần tuyên trong bản án như sau: Áp dụng khoản 1 Điều 42 BLHS; điểm b khoản 2 Điều 76 BLTTHS, Điều 239 BLDS, quyết định trả lại …..(tên tài sản) cho chủ sở hữu. Trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày 01/7/2013, nếu không có chủ sở hữu đến nhận... (tên tài sản) thì...(tên tài sản) được sung quỹ Nhà nước. Trong trường hợp này cùng với việc ra bản án, Hội đồng xét xử phải ra thêm thông báo tìm chủ sở hữu; sau khi tuyên án, nếu trong thời hạn thông báo mà có người đến nhận là chủ sở hữu, sau khi xác minh đúng là chủ sở hữu của tài sản đó thì cơ quan có thẩm quyền trả lại tài sản cho họ. Nếu hết thời hạn thông báo mà có người đến nhận là chủ sở hữu của tài sản, thì đây là trường hợp tranh chấp quyền sở hữu đối với vật chứng và được giải quyết như ở trường hợp 1 đã nêu trên; nếu không có người đến nhận là chủ sở hữu thì tài sản đó đương nhiên thuộc sở hữu của Nhà nước.

Từ những phân tích trên đây, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền xác định chủ sở hữu đối với tài sản trong BLTTHS năm 2003 theo hướng trên.

* Về trình tự, thủ tục thi hành biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong Luật thi hành án hình sự

Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và được áp dụng hầu hết trong các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và tài sản của con người. Tuy nhiên, biện pháp này mới chỉ được quy định trong BLHS còn chưa được đề cập đến trong BLTTHS và Luật thi hành án hình sự mới có hiệu lực có dành Chương X quy định về thi hành biện pháp tư pháp nhưng với 4 mục và 31 điều đều quy định về thi hành biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh và các biện pháp đối với người chưa thành niên mà không có quy định nào về thi hành biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại".

Có thể do tính chất của biện pháp này là biện pháp tư pháp hình sự nhưng có tính chất dân sự nên theo quy định của pháp luật hiện hành việc thi hành các quyết định về tài sản do Cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Tuy nhiên, khó khăn và hạn chế trong quy định này là sẽ khó đảm bảo tính tự nguyện và tích cực của người phải thi hành; đồng thời theo quy định Điều 126 Luật thi hành án dân sự năm 2008 thì đối tượng là các bản án, quyết định của Tòa án trong khi đó biện pháp tư pháp như đã phân tích có thể được áp dụng trong mọi giai đoạn tố tụng nên không chỉ do Tòa án quyết định.

Điều 126. Trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự

1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ trong trường hợp bản án, quyết định tuyên trả lại tài sản cho đương sự.

Trường hợp người được trả lại tiền, tài sản tạm giữ đồng thời là người phải thi hành nghĩa vụ trả tiền không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên xử lý tiền, tài sản đó để thi hành án [31].

Vì vậy, chúng tôi kiến nghị bổ sung quy định về trình tự, thủ tục thi hành biện pháp này trong Luật thi hành án hình sự với các nội dung cơ bản như: cơ quan có trách nhiệm thi hành, quyền và trách nhiệm của cơ quan đó; quyền và nghĩa vụ của người bị áp dụng biện pháp này, quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản.

* Về hợp tác quốc tế khi tài sản bị chiếm đoạt đang ở nước ngoài hoặc tài sản đang ở Việt Nam được xác định có nguồn gốc từ hành vi phạm tội ở nước ngoài

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Trong trường hợp tài sản cần phải được trả lại đang ở nước ngoài hoặc phía Việt Nam có đề nghị của nước ngoài áp dụng biện pháp trả lại tài sản đang có ở Việt Nam được xác định có nguồn gốc từ hành vi phạm tội ở nước ngoài hiện nay BLTTHS năm 2003 chưa có quy định về vấn đề này, ngay cả trong Luật tương trợ tư pháp cũng chưa có.

Hiện pháp luật quốc tế cũng như các công ước của Liên hợp quốc liên quan đến đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm ma túy hay tội phạm tham nhũng mà Việt Nam là thành viên đều có các điều khoản khuyến nghị các quốc gia thành viên nội luật hóa các quy định về vấn đề này. Để đảm bảo mọi tài sản bị chiếm đoạt đều được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đồng thời để phù hợp với xu hướng chung trong quá tình hội nhập, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm nội dung này trong BLTTHS năm 2003 và Luật tương trợ tư pháp.

Biện pháp tư pháp - Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo Bộ luật hình sự năm 1999 - 13

Trên đây là một số giải pháp chúng tôi mạnh dạn đề xuất để hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá các quy định hiện hành và những vướng mắc từ thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh việc sửa đổi pháp luật cần tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp tư pháp này.


3.3. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI" TRONG THỰC TIỄN

Để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong thực tiễn quan trọng nhất là khắc phục những nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng biện pháp này.

3.3.1. Nâng cao năng lực, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tư pháp

Hoạt động tư pháp chủ yếu là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Thi hành án thực sự có nhiều đóng góp to lớn vào việc giữ vững an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế về mặt năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan tư pháp, chưa đáp ứng

đúng mức yêu cầu của tình hình mới, đồng thời một số cán bộ lợi dụng quyền hạn vị trí công tác mưu cầu lợi ích cá nhân làm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp bị giảm sút.

Bác Hồ coi đạo đức cách mạng là gốc, là động lực để mỗi người hoàn thành nhiệm vụ của mình, đối với cán bộ tư pháp trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc tháng 2-1948, Bác đã vạch rõ đạo đức cách mạng đó là: "Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư", trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch.

Mặt khác, để nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự nói chung và việc áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nói riêng, bên cạnh sự hoàn thiện của pháp luật thì việc nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp vững vàng trước sự cám dỗ của vật chất của các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân là rất cần thiết nhất là trong giai đoạn kinh tế hiện nay. Về vấn đề này, tác giả xin có một số giải pháp sau:

- Tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Tuyển dụng cán bộ tư pháp các cấp có trình độ chuyên môn cao và đạo đức tốt đảm bảo số lượng và mạnh về chất lượng.

- Xây dựng tiêu chuẩn chung cho cán bộ tư pháp đạt tiêu chuẩn mới cử tham gia khóa đào tạo nghiệp vụ (như phải căn cứ vào trình độ lý luận chính trị, trình độ cử nhân luật trở lên, có phẩm chất đạo đức, hoàn thành nhiệm vụ được giao, thời gian làm công tác tư pháp và phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam).

- Thường xuyên tổ chức tập huấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn liên quan đến công tác tư pháp hình sự cho cán bộ tư pháp các cấp.

- Phát huy vai trò của Trường Cán bộ Tòa án trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ xét xử cho cán bộ ngành và Hội thẩm nhân dân.

- Cải tiến chương trình đào tạo cán bộ tư pháp, chú ý đến việc đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn. Trong chương trình đào tạo phải có phần giáo dục đạo đức, truyền thống nghề nghiệp. - Tăng cường công tác kiểm tra của phòng kiểm tra giám đốc - Tòa án cấp tỉnh và hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát.

- Chăm lo giải quyết và nâng cao đời sống của lực lượng cán bộ tư pháp cả về tinh thần và vật chất. Đồng thời cũng phải quy định rõ trách nhiệm kỷ luật khi cán bộ tư pháp vi phạm nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp. Trong thi đua khen thưởng phải coi đạo đức và giữ gìn truyền thống nghề nghiệp là một tiêu chí hết sức quan trọng, có phương pháp nhân rộng hình ảnh cán bộ tư pháp công minh, tài giỏi trong toàn ngành. Thực hiện được những vấn đề này sẽ thu hút được lực lượng cán bộ tư pháp có kiến thức pháp lý sâu sắc và tâm huyết với sự nghiệp bảo vệ công lý.

3.3.2. Tăng cường hoạt động hướng dẫn bảo đảm thực hiện áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thường thiệt hại" đạt hiệu quả

Không chỉ ngành Tòa án mà các ngành tư pháp nói chung cần tăng cường hoạt động tổng kết, đánh giá tình hình áp dụng pháp luật để kịp thời đưa ra các hướng dẫn giải quyết vướng mắc, khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Đồng thời tổ chức các hội thảo hoặc hội nghị chuyên đề ở từng địa phương, nghe ý kiến thảo luận của các cán bộ làm công tác thực tiễn để nắm bắt được cách hiểu, cách vận dụng khác nhau ở mỗi địa phương các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp này nhằm khắc phục tình trạng lúng túng về đường lối áp dụng do có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau về cùng một vụ việc. Từ đó, sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện phù hợp với thực tiễn, tạo ra một cơ chế áp dụng thống nhất. Dưới đây là một số trường hợp xảy ra trên thực tiễn nhưng vẫn còn có

những quan điểm khác nhau khi áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại", cần có hướng dẫn cụ thể:

Thứ nhất, khi người phạm tội tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại thì xác định bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS "tự nguyện khắc phục hậu quả" theo điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Nhưng khi người phạm tội tự nguyện trả lại tài sản cho chủ sở hữu thì chưa có hướng dẫn cụ thể là có được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS "tự nguyện khắc phục hậu quả" theo điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS hay là áp dụng khoản 2 Điều 46 BLHS cho bị cáo được hưởng "tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác". Thực tế cho thấy, mỗi nơi áp dụng khác nhau không thống nhất mà điều này sẽ dẫn đến áp dụng Điều 47 BLHS khác nhau, ảnh hưởng quyền lợi của chính bị cáo.

Thứ hai, trường hợp người bị thiệt hại không chấp nhận nhận lại tài sản thì người phạm tội phải bồi thường còn tài sản đó được xử lý như thế nào?

Ví dụ: A có hành vi trộm cắp 05 hộp thuốc của một cửa hàng thuốc tư nhân B, trị giá là 2.000.000 đồng/hộp chủ cửa hàng lấy về theo đặt hàng của một khách hàng. Khi bắt được A thu hồi được 05 hộp thuốc đó nhưng người khách hàng không còn nhu cầu sử dụng số thuốc đó nữa, vì vậy chủ cửa hàng B không chấp nhận việc nhận lại 05 hộp thuốc đó mà yêu cầu A phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, có nhiều quan điểm đặt ra đối với vấn đề xử lý 05 hộp thuốc và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Quan điểm thứ nhất: cần áp dụng khoản 1 Điều 42 BLHS năm 1999; điểm b khoản 2 Điều 76 BLTTHS năm 2003 bồi thường thiệt hại cho B số tiền

10.000.000 đồng + tiền B bị khách hàng phạt do không giao hàng đúng hạn (nếu có) đồng thời tuyên trả lại cho chủ cửa hàng B 05 hộp thuốc mặc dù B không có yêu cầu nhận lại tài sản vì theo nguyên tắc tài sản phải được trả lại cho chủ sở hữu.

Quan điểm thứ hai: cần áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 BLHS năm 1999, điểm c khoản 2 Điều 76 tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với 05 hộp thuốc đó. Bởi lẽ đây là vật chứng của vụ án thì mặc dù bị cáo đã bồi thường xong và chủ cửa hàng B không có yêu cầu nhận lại số thuốc đó thì cũng không

thể trả lại cho bị cáo số thuốc trên. Vì nếu như vậy sẽ không đúng với nguyên tắc tài sản do phạm tội mà có thì phải được tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Quan điểm thứ ba: cần áp dụng khoản 1 Điều 42 BLHS năm 1999 bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho B số tiền 10.000.000 đồng + tiền B bị khách hàng phạt do không giao hàng đúng hạn (nếu có) và tuyên trả lại 05 hộp thuốc cho bị cáo. Bởi lẽ, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và B không có yêu cầu gì về việc nhận lại tài sản. Vì vậy, vấn đề bồi thường thiệt hại đã xong nên số thuốc đó phải trả lại cho bị cáo là phù hợp để tránh trùng thu.

Chúng tôi cho rằng, quan điểm thứ hai là phù hợp với quy định của pháp luật. Không thể lập luận như quan điểm thứ ba vì 05 hộp thuốc là tài sản do phạm tội mà có, cho nên không thể cứ bồi thường xong, phía bị hại không yêu cầu nhận lại tài sản thì tuyên trả lại cho bị cáo được. Mặt khác, nếu tuyên trả lại cho bị cáo 05 hộp thuốc = với giá trị tài sản bị cáo phải bồi thường như vậy vô hình chung bị cáo không phải chịu thiệt hại gì về mặt kinh tế khi đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Như vậy, việc áp dụng pháp luật không đạt hiệu quả trong công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm đồng thời áp dụng sai pháp luật về mặt nguyên tắc tài sản do phạm tội mà có phải bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, nếu giải quyết theo quan điểm thứ nhất lại vi phạm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu đồng thời sẽ tạo tiền lệ cho người dân thái độ bất cẩn đối với tài sản của mình, ý thức tự bảo quản tài sản của chủ sở hữu sẽ rất thấp tạo điều kiện cho tội phạm vì đối với họ dù bị chiếm đoạt tài sản thì họ vừa được bồi thường toàn bộ thiệt hại lại vừa được nhận lại tài sản đó. Điều này sẽ dẫn đến mất trật tự xã hội.

Để hoạt động hướng dẫn pháp luật đạt hiệu quả, giữa các cơ quan tư pháp và giữa các cơ quan tư pháp với các cơ quan hữu quan như tài chính, bảo hiểm....phối hợp xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh nhằm tạo ra một quy chế phối hợp, hỗ trợ đồng bộ trong cả nước.

3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật sâu rộng trong nhân dân nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho người dân đồng thời cũng góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại".

Đây sẽ là cầu nối để đưa pháp luật vào cuộc sống, để pháp luật không còn là một điều bí mật nữa. Các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật rất đa dạng như: câu lạc bộ tìm hiểu pháp luật, thư viện pháp luật, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các cộng đồng dân cư, sử dụng công nghệ thông tin đặc biệt là internet. Ngoài ra, hiện nay hoạt động của các trung tâm trợ giúp pháp lý rất hiệu quả trong việc tuyên truyền, giải thích và hướng dẫn pháp luật cho người dân. Thậm chí ngay trong công tác hòa giải cơ sở, hòa giải tại Tòa án, hoạt động phổ biến quyền và nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng rất hiệu quả đặc biệt trong lĩnh vực giải quyết các vấn đề trách nhiệm dân sự.

Quá trình tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nên lồng ghép nhiều hình thức khác nhau tùy vào đối tượng, nội dung tuyên truyền và đặc biệt hướng tới đối tượng thanh thiếu niên để từng bước hình thành ý thức chấp hành pháp luật, biết tôn trọng tính mạng, tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và tài sản của người khác giảm bớt các mâu thuẫn không đáng có trong xã hội.

Trong hoạt động giáo dục pháp luật nhằm tạo ra ý thức chấp hành pháp luật ngay cả khi đã thực hiện hành vi phạm tội, tạo ý thức tự nguyện chấp hành hình phạt và biện pháp tư pháp thì vai trò của gia đình rất quan trọng. Ví dụ: sự động viên của gia đình khi biết người thân của mình thực hiện hành vi phạm tội để họ ra nhận tội, trả lại tài sản đã chiếm đoạt hoặc bồi thường các tổn thất vật chất và tinh thần cho người bị hại... sẽ giúp cho hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp dễ dàng hơn, các biện pháp tư pháp nói chung và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nói riêng sẽ hiệu quả hơn.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí