Khoa Nghiệp vụ Thanh tra.
2.2. Thực trạng đội ngũ giảng viên Trường Cán bộ thanh tra.
Thực trạng của đội ngũ giảng viên (về số lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực, phẩm chất...) là vấn đề cần được quan tâm và phân tích một cách cụ thể, đảm bảo tính khoa học. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các giải pháp để phát triển đội ngũ giảng viên nhằm nâng cấp trường lên Học viện Thanh tra. Mọi giải pháp luôn hướng tới sự đáp ứng về nhu cầu và mục đích của tương lai trên cơ sở khắc phục và hạn chế tới mức thấp nhất những khó khăn, trở ngại hay những tồn tại cả về chủ quan
và khách quan. Những giải pháp đúng đắn và khả thi sẽ không thể được
xây dựng nếu như
không có sự
phân tích và nhận định chính xác, chân
thực những vấn đề của thực trạng.
2.2.1. Số lượng đội ngũ giảng viên
Trải qua 34 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, đội ngũ giảng
viên trường Cán bộ Thanh tra những chuyển biến, số lượng giảng viên ngày
một tăng lên, tỷ tệ thuận với đội ngũ giảng viên có chất lượng, có trình độ cao cũng được tăng lên, tuy nhiên tỷ lệ tăng bình quân hàng năm vẫn chưa thực sự đáp ứng so với nhiệm vụ đào tạo của nhà trường.
Về đội ngũ giảng viên, cán bộ,viên chức của Trường tính đến
15/8/2011 có tổng số 71 giảng viên, cán bộ, công nhân viên chức. Trong đó:
+ Cán bộ, công nhân viên chức: 36 người (chiếm 52,12%)
+ Nhà Trường có 35 giảng viên (chiếm 47,88%).
Như vậy giảng viên làm công tác giảng dạy của trường ít hơn số cán bộ, công nhân viên, do đặc thù Nhà trường là trường đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ
nên còn một số
lượng lớn giảng viên kiêm nghiệm ở
Thanh tra
chính phủ và Học viện Hành Chính, Thanh tra các Bộ, Ngành địa phương.
Căn cứ vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng các hệ thanh tra viên, thanh tra viên chính, thanh tra viên cao cấp, các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức
ngắn ngày về
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, phòng chống tham
nhũng và các hệ đào tạo khác. Trên quan điểm tăng cường giảng viên cơ hữu để đảm bảo chủ động trong việc phân công giảng dạy và công tác tại trường.
Ước tính mỗi năm trường có khoảng 40 lớp x 400 giờ/ lớp, Tổng số giờ trong một năm 16.000 giờ.
Số GV cần thiết được tính bằng tổng số giờ trong 1 năm chia cho Số giờ định mức.
Theo thông tư liên tịch số 06/2011/ TTLTBNV ngày 06/6/2011 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục đào tạo “Quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, trường Chính trị
tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương”; Khung định mức giờ chuẩn giảng dạy được quy đổi từ quỹ thời gian giảng dạy cho chức danh Giảng viên: 280 giờ chuẩn/ năm;
Số giảng viên cần thiết là được tính
16.000giờ/280 giờ = 57 (giảng viên).
Trong khi đó Trường mới có 35 giảng viên. Như vậy về số lượng giảng viên nhà trường đó thiếu khoảng 22 giảng viên, chưa kể số giảng viên kiêm nhiệm công tác khác của trường.
Bảng 2.2: cơ cấu giảng viên theo Phòng, Khoa
KHOA, PHÒNG | SỐ LƯỢNG | Ghi chú | ||
Thừa | Thiếu | |||
1 | Phòng Đào tạo | 6 | 0 | 5 |
2 | Khoa Đại cương | 8 | 0 | 6 |
3 | Khoa NV Thanh tra | 9 | 0 | 6 |
4 | Khoa NV KNTC | 8 | 0 | 5 |
5 | Phòng khác | 4 | 0 | 0 |
Tổng | 35 | 0 | 22 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung Quản Lý Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên 1.5.1.quản Lý Công Tác Tuyển Dụng Giảng Viên
- Quản Lý Công Tác Đào Tạo Và Bồi Dưỡng Giảng Viên
- Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Trường Cán Bộ Thanh Tra
- Tổng Hợp Đội Ngũ Giảng Viên Theo Trình Độ Đào Tạo
- Quản Lý Phát Triển Giảng Viên Trường Cán Bộ Thanh Tra
- Kết Quả Khảo Sát Hiệu Quả Thực Hiện Các Chế Độ Chính Sách Đối Với Giảng Viên
Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.
(Nguồn: Trường Cán bộ Thanh tra cung cấp)
Nếu như trước năm 2008, Nhà trường mới chỉ có 03 phòng, khoa, trong
đó đội ngũ giảng viên tập trung
ở Khoa Giáo viên
thì theo Quyết định số
230/2009/QĐLĐTTCP thì cơ
cấu tổ
chức của Nhà trường có 7 Phòng,
Khoa.
Năm 2009, Trường chỉ có 01 giảng viên là Tiến sỹ, năm 2010, 2011
đã tuyển dụng thêm 02 Tiến sỹ, nâng dần số giảng viên là Tiến sỹ lên tổng số là 03 giảng viên, số giảng viên đang nghiên cứu sinh mới tuyển thêm 01 đồng chí, tổng số nghiên cứu sinh trong trường là 04 giảng viên; trong số
giảng viên mới tuyển về
trường 5 năm trở
lại đây Thạc sỹ
và đang học
Cao học cũng được nâng lên đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên. Trong số Tiến sỹ, Nghiên cứu sinh, Thạc sỹ… đa số là
chuyên ngành Luật, Hành chính, Quản lý Giáo dục đó là những chuyên ngành phù hợp, cần thiết cho việc phát triển của nhà trường.
Trong quá trình phát triển, Nhà trường đã có những biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giảng viên, nhằm đạt được mục tiêu đề ra, từng bước tuyển dụng, nâng dần chất lượng giảng viên theo yêu cầu trước mắt và lâu dài khi nhà trường phát triển.
* Nhận định về sự phát triển số lượng cán bộ, giảng viên và nhân viên
Qua kết quả thống kê về sự phát triển số lượng giảng viên của Trường Cán bộ Thanh tra trong 5 năm, từ năm 2007 đến nay, tổng số cán bộ, giảng viên tuy có tăng lên song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo bồi dưỡng của nhà trường.
* Nguyên nhân
Trường Cán bộ Thanh tra được thành lập 34 năm số lượng cán bộ công nhân viên của trường khi thành lập là rất ít, mặc dù đã được sự quan tâm, tạo điều kiện của Thanh tra chính phủ và các bộ ngành liên quan, nhà trường đã
nhanh chóng
ổn định tổ
chức và có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng phát
triển các chương trình đào, đội ngũ giảng viên có rất nhiều, kể cả việc nhà
trường còn bị sức ép tuyển dụng vì các mối quan hệ. Song không phải đối
tượng nào cứ học xong đại học hoặc có bằng sư phạm là có thể giảng dạy được tại trường vì vậy số lượng tuyển vào trường cũng đã có sự chọn lọc nên
hạn chế. Hơn nữa, do thời gian ngắn trong lúc đó quy mô đào tạo phát triển đòi hỏi nhanh là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thiếu hụt này.
Tình hình trên đây trước hết là do công tác quy hoạch đội ngũ giảng viên
trên cơ sở kế hoạch phát triển quy mô đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường
chưa được thực hiện một cách triệt để. Trong 5 năm trở
lại đây số
lượng
giảng viên đã tăng song vẫn còn thiếu 22 giảng viên, chủ yếu là thiếu giảng viên có kinh nghiệm thực tế trong công tác thanh tra , giải quyết khiếu nại, tố cáo để giảng dạy nghiệp vụ thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng.
Bên cạnh đó còn có các nguyên nhân khác là do đặc thù của ngành mức lương không cao nhưng phải có trình độ chuyên môn và khả năng sư phạm mới có thể trở thành giảng viên, nên rất khó tuyển dụng khi cần thiết. Một nguyên nhân khác nữa là công tác dự báo phát triển dự báo nhu cầu phát triển nguồn nhân lực hàng năm, dự báo trung hạn và dài hạn chưa thực sự có hiệu quả, chưa thật sự gắn kết với nhau để tạo nên một sự phát triển đồng bộ, việc tăng quy mô đào tạo đại học còn mang tính tự phát.
2.2.2. Cơ cấu đội ngũ giảng viên trường Cán bộ Thanh tra
a) Về cơ cấu độ tuổi
Bảng 2.3: Cơ cấu giảng viên theo độ tuổi
< 30 tuổi | 31 40 tuổi | 4150 tuổi | 51 60 tuổi | |||||
35 | SL | TL | SL | TL | SL | TL | SL | TL |
08 | 22,9% | 16 | 45,7% | 05 | 14,3% | 06 | 17% |
(Nguồn: Trường Cán bộ Thanh tra cung cấp)
Qua số
liệu thống kê về độ
tuổi của giảng viên Trường Cán bộ
Thanh tra cho thấy:
Ở độ tuổi 51 đến 60 tuổi có 06 người chiếm tỷ lệ 17%. Đây là số giảng viên có thâm niên nghề nghiệp cao, được đào tạo chuẩn và trên chuẩn, phần
lớn trong số
đó hiện đang giữ
cương vị
chủ
chốt lãnh đạo chuyên môn ở
Trường và ở các khoa, tổ, là lực lượng giảng viên đầu đàn, giảng viên chính của nhà trường. Tuy nhiên số giảng viên này sắp đến tuổi về hưu nên cần phải có lực lượng kế cận kịp thời.
Số giảng viên độ tuổi từ
41 50 tuổi có 05 người chiếm tỷ lệ
14,3%.
Đây là lực lượng nòng cốt vì phần lớn giảng viên đã đạt trình độ chuẩn và trên
chuẩn quy định, độ
tuổi chín muồi về kỹ
năng nghề
nghiệp, chuyên môn
nghiệp vụ đã được khẳng định. trong số đó có trình độ Thạc sĩ và vẫn còn khả năng tiếp tục được đào tạo bồi dưỡng lên trình độ cao hơn. Đội ngũ này nếu được quản lý phát triển tốt sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng giảng dạy của cả đội ngũ giáo viên. Tuy nhiên, hàng năm cần phải phân loại đội ngũ giảng viên này theo các tiêu chí khác nhau như trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng về ngoại ngữ, khả năng nghiên cứu khoa học... để có những hình thức đào tạo... bồi dưỡng nâng cao trình độ phù hợp.
Số giảng viên có độ tuổi từ 31 40 tuổi có 16 người chiếm tỷ lệ khá lớn
45,7%. Phần lớn trong số này có thâm niên nghề nghiệp trên 10 năm giảng
dạy, có kinh nghiệm, chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, nhiệt tình hăng say công tác, nhạy bén với cái mới, có khả năng tiếp thu nhanh tri thức hiện đại.
Số giảng viên dưới 30 tuổi có 08 người chiếm tỷ lệ 22,9%. Số giảng viên này tuy không nhiều nhưng lại là lực lượng hết sức quan trọng trong đội
ngũ chung của nhà trường, với sức trẻ, lòng nhiệt tình, khả
năng thích
ứng
nhanh với tri thức và khoa học hiện đại, có trình độ ngoại ngữ, tin học, là lực lượng nòng cốt gánh vác sứ mệnh của nhà trường trong tương lai. Phần lớn đội ngũ này được tuyển dụng trong vòng 7năm trở lại đây, đó là những sinh viên khá, giỏi được đào tạo từ các trường đại học lớn trong nước như trường Đại học Luật, Học viện Tài Chính, Ngân hàng, Bách khoa Hà nội, Sư phạm,
Thương Mại,.... Số giảng viên này rất thuận lợi cho việc quy hoạch, bồi
dưỡng nâng cao trình độ thạc sĩ, tiến sĩ trong giai đoạn tới. Với sức trẻ, nhạy bén và những điều kiện thuận lợi họ sẽ vươn lên nhanh chóng, là nguồn bổ
sung, thay thế, kế trường.
cận kịp thời đội ngũ giảng viên đã trên 50 tuổi của nhà
Hạn chế lớn nhất của số giảng viên dưới 30 tuổi là thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tổ chức các hoạt động giáo dục trong
nhà trường, họ
chưa được rèn luyện thử
thách nhiều nên dễ
nóng vội, chủ
quan. Điều này có thể khắc phục được nếu các cấp quản lý trong trường quan
tâm, tạo điều kiện và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách trong thực tiễn giúp họ nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là đội ngũ giảng viên đầu đàn, có trình độ chuyên môn cao quan tâm giúp đỡ để họ phát triển.
Cần phải tiếp tục tăng cường, bổ sung lực lượng giảng viên trẻ để vừa đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Nhất là việc bổ sung giảng viên ở những ngành nhiều học sinh sinh viên, kịp thời thay thế số giảng viên
sắp đến tuổi về
hưu, đồng thời góp phần trẻ
hoá đội ngũ giảng viên. Tuy
nhiên việc tăng cường, bổ sung đội ngũ giảng viên cần phải được tiến hành đúng quy chế, quy trình tuyển dụng nhằm đảm bảo chất lượng.
b)Về thâm niên giảng dạy
Bảng 2.4 Tổng hợp thâm niên công tác của giảng viên
<5 năm | 5 – 10 năm | 11 20 năm | 21 30 năm | 31 40 năm | ||||||
SL | TL | SL | TL | SL | TL | SL | TL | SL | TL | |
35 | 05 | 14,3% | 12 | 34,3% | 08 | 22,8% | 06 | 17% | 04 | 11,4% |
(Nguồn: Phòng HCTC Trường Cán bộ Thanh tra)
Kết quả thống kê trên cho thấy: Số GV có thâm niên giảng dạy dưới 5 năm chiếm tỷ lệ rất ít (14,3%) trong tổng số đội ngũ GV của nhà trường. Hầu hết số GV này mới được tuyển dụng trong vòng 4 năm trở lại đây. Tuy họ có sức trẻ và lòng nhiệt tình trong công tác nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy, nghiên cứu, kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục, còn nhiều hạn chế về kỹ năng sống, phẩm chất chính trị chưa thật sự ổn định... Vì vậy trong
quản lý, các nhà
quản lý cần quan tâm giám sát và có kế
hoạch bồi dưỡng
thường xuyên để đội ngũ giảng viên trẻ phát huy được những mặt mạnh của mình.
Số giảng viên có thâm niên từ 5 10 năm chiếm tỷ lệ khá lớn: 34,3%, đây là điều kiện rất thuận lợi trong công tác quy hoạch phát triển đội ngũ cốt cán, giảng viên đầu đàn trong tương lai của nhà trường.
Số giảng viên có thâm niên từ 11 20 năm chiếm tỷ lệ 22,8%, đây là số giảng viên thường có độ tuổi 35 45, họ đã ổn định gia đình và thường chuyên tâm đến vấn đề giảng dạy nghiên cứu, học tập.
Số giảng viên có thâm niên từ 21 30 năm chiếm tỷ lệ chiếm tỷ lệ 17%
đây là điểm thuận lợi lớn đối với nhà trường bởi vì đội ngũ giảng viênnhà khoa học của trường đang trong độ chín cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề; Giảng viên có thâm niên từ 31 năm trở lên là 11,4 % đây là những giảng viên có tuổi đời cao nên điều kiện để họ tiếp tục học tập lên trình độ cao hơn như Thạc sĩ, Tiến sĩ ngày càng hạn chế, một số giảng viên còn ngại sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại. Đây là bài toán nan giải mà các nhà quản lý Trường Cán bộ Thanh tra phải có kế hoạch bồi dưỡng , động viên nhất là việc sử dụng các phương tiện thiết bị dạy học hiện đại để đổi mới phương pháp giảng dạy vấn đề mà toàn ngành Giáo dục đang tích cực phấn đấu thực hiện.
c) Về cơ cấu giới tính
Cơ cấu đội ngũ phân chia theo giới tính trong một tổ bộ máy, tổ chức có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của các hoạt động mà bản thân mỗi cá nhân, tổ chức đó mang lại. Tuy nhiên cần phải xem xét, phân tích đặc thù để đánh giá mức độ tác động của yếu tố giới tính đến công việc của tổ chức, cá nhân đó như thế nào.
Bảng 2.5 Cơ cấu giảng viên theo giới tính
ĐƠN VỊ | SỐ LƯỢNG | GIỚI TÍNH | |
NAM | % | N Ữ | % |
1 | Phòng Đào tạo | 6 | 4 | 66,7% | 2 | 33,3% |
2 | Khoa Đại Cương | 8 | 2 | 25% | 6 | 75% |
3 | Khoa NV Thanh tra | 9 | 3 | 33,3 | 6 | 66,7% |
4 | Khoa NV KNTC | 8 | 3 | 37,5 | 5 | 62,5 |
5 | Khác | 4 | 3 | 75% | 1 | 25% |
Tổng | 35 | 15 | 42,9% | 20 | 57,1 |
(Nguồn: Trường Cán bộ Thanh tra cung cấp)
Theo bảng tổng hợp này ta thấy tỷ lệ giảng viên nam là 42,9 %, giảng viên nữ là 57,1 %. Ta thấy tỷ lệ giảng viên nam so với nữ chênh lệch không nhiều: số giảng viên nữ chiếm lệ cao hơn nam giới. Đây là điều bình thường đối với một trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đó cũng là kiện thuận lợi để giảng viên của nhà trường học tập nâng cao trình độ. Tuy nhiên ở trưởng còn
có một số điểm đặc trưng sau:
Đa số giảng viên nam là cán bộ lãnh đạo Trường, Phòng, Khoa số tiết kiêm nghiệm nhiều, nên thực tế giảng viên nữ thực hiện việc giảng dạy nhiều hơn.
Tuổi đời của giảng viên nữ phần lớn dưới 35 tuổi việc xây dựng gia
đình và nghỉ
thai sản, nghỉ nuôi con
ốm của các nữ
giảng viên làm cho nhà
trường luôn phải có số lượng giảng viên dự phòng, nguy cơ thiếu giảng viên càng tăng.
Do đặc điểm về giới, phụ nữ thường phải chăm lo quán xuyến việc nhà nhiều hơn nam giới. Do thiên chức làm vợ, làm mẹ đã khiến phụ nữ phải giành nhiều thời gian cho việc chăm sóc và nuôi dạy con. Cho nên sự đầu tư cho công tác chuyên môn, học tập nâng cao trình độ và tham gia các hoạt động của nhà trường là một ghi nhận về sự cố gắng lớn của phụ nữ (hiện số giảng viên nữ có trình độ thạc sĩ và đang học cao học chiếm tới 40% số giảng viên có trình độ thạc sĩ của nhà trường). Trong công tác chủ nhiệm lớp và các công tác khác, với đức tính chu đáo, cẩn thận, chị em thường làm tốt hơn nam giới, đây là điểm mạnh của giảng viên nữ trong trường. Song một số giảng viên nữ