Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Thông Qua Cơ Quan, Tổ Chức Có Thẩm Quyền Không Phải Là Tòa Án

người bị kiện trong biện pháp kiện đòi tài sản và kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại, người bị kiện ở đây không phải là người đang quản lý, nắm giữ tài sản, hoặc bắt buộc là người gây ra thiệt hại đối với chủ thể quyền. Người bị khởi kiện có thể là người có quyền sở hữu, chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản mà họ đang chiếm hữu, khai thác sử dụng nhưng việc thực hiện quá trình chiếm hữu, khai thác, sử dụng của họ đã ảnh hưởng đến quyền lợi của người khởi kiện dẫn đến họ không thể thực hiện quyền của mình đối với tài sản. Người bị khởi kiện là người mà chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đã có yêu cầu họ chấm dứt hành vi có nguy cơ ảnh hưởng, hay cản trở đến quá trình thực hiện quyền sở hữu, chiếm hữu hợp pháp của họ nhưng người bị yêu cầu không tự nguyện thực hiện việc chấm dứt hành vi đó.

Khởi kiện ra Tòa án yêu cầu người bị kiện chấm dứt hành vi trái pháp luật, trả lại tài sản hay bồi thường thiệt hại thường là lựa chọn của chủ thể quyền khi các nỗ lực tự bảo vệ quyền sở hữu, hay thông qua cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hỗ trợ thực hiện quyền bảo vệ nhưng không đạt được hiệu quả. So với các phương thức bảo vệ khác, kiện ra Tòa án mang lại cho chủ thể quyền khả năng đảm bảo về trách nhiệm chấm dứt hành vi trái pháp luật, trả lại tài sản hay bồi thường thiệt hại từ người bị kiện. Trong quá trình thực hiện quyền bảo vệ, người có quyền có thể yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm hạn chế thiệt hại về mất mát, sa sút giá trị của tài sản nhằm hạn chế tối đã thiệt hại đối với quyền khai thác, sử dụng tài sản của mình. Tuy nhiên, khi khởi kiện yêu cầu tòa án bảo vệ quyền của mình, người có quyền buộc phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục, nội dung của việc khởi kiện, các bên sẽ mất nhiều thời gian và chi phí hơn để tham gia quá trình theo kiện. Bên cạnh đó, tâm lý các bên khi tham gia quá trình tố tụng tại Tòa dẫn đến thái độ đối kháng và thiếu thiện chí trong quá trình giải quyết vụ việc dễ gây ra bất hòa cho các bên khi tham gia các giao dịch dân sự. Ngoài

ra, quá trình thi hành án trên thực tế còn gặp nhiều vấn đề trở ngại dẫn đến tình trạng thi hành án kéo dài cùng tâm lý “vô phúc táo tụng đình” cũng dẫn đến người có quyền ngại phải kiện ra Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2.1.3.Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu thông qua cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không phải là Tòa án

Khi biện pháp tự bảo vệ không đạt được hiệu quả, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người chiếm hữu trên cơ sở quyền sử dụng đất, quyền sử dụng bất động sản liền kề cũng có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người có hành vi trái pháp luật chấm dứt thực hiện hành vi, trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền mà người có quyền thực hiện yêu cầu là các cơ quan như Ủy ban nhân dân, cơ quan công an, cơ quan thuế, cơ quan hải quan, cơ quan hàng không, cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, các tổ chức được nhà nước trao thẩm quyền như tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan.. thậm chí là cơ quan trọng tài theo quy định của các luật chuyên ngành, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật trọng tài thương mại nhằm yêu cầu các cơ quan, tổ chức này buộc buộc người có hành vi trái pháp luật chấm dứt thực hiện hành vi, trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Ví dụ trong quá trình xử lý vi phạm hành chính, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 13 hay buộc người đó phải khôi phục tình trạng ban đầu của tài sản theo quy định tại Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính… Để thực hiện được các yêu cầu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp cũng phải chứng minh quyền sở hữu, chiếm hữu của mình đối với tài sản cũng như hành vi xâm phạm quyền và thiệt hại mà chủ thể quyền phải gánh chịu. Tuy nhiên, quy trình thực hiện yêu cầu của các chủ thể quyền tuân theo các quy định của các Luật chuyên ngành vì vậy người viết không đề cập trong luận văn này.

2.2. Bảo vệ quyền sở hữu đối với một số loại tài sản theo quy định của pháp luật dân sự

2.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản là quyền tác giả

Quyền tác giả theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu” [9]. Tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học như tác phẩm văn học, sách giáo khoa, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm báo chí, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm sân khấu, chương trình máy tính… và tác phẩm phái sinh như tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn nếu việc bảo hộ tác phẩm phái sinh không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Các tác phẩm được bảo hộ thường được biểu hiện dưới dạng thông tin, văn bản, chuỗi chương trình nên dễ trở thành đối tượng cho hành vi xâm phạm quyền sở hữu do khả năng nắm giữ, quản lý đối với tác phẩm khó thực hiện.

Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Trong phạm vi Luận văn này, người viết thực hiện làm rõ các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu đối với quyền tác giả trên góc độ bảo vệ quyền tài sản với tư cách là một loại tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Quyền tài sản thuộc nội dung quyền tác giả là các quyền làm cho tác phẩm phái sinh, biểu diễn tác phẩm trước công chúng, sao chép tác phẩm, phân phối, nhập khẩu bản gốc, bản sao của tác phẩm, truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trìnhmáy tính. Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản theo quy định tại Điều 20 LSHTT. Chủ sở hữu quyền tác giả có thể là tác giả, người đã sử dụng tài chính, cơ sở vật chất - kỹ

thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm; là các đồng tác giả; là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả, là người thừa kế, người được chuyển giao quyền và trong một số trường hợp là Nhà nước. Theo quy định các quyền tài sản do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định. Mọi tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Như vậy, chủ sở hữu quyền tác giả sẽ là người thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu mình khi xuất hiện nguy cơ hoặc thực tế đã có hành vi xâm phạm quyền tác giả của mình bao gồm: hành vi chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; mạo danh tác giả; công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả, đồng tác giả trong trường hợp có đồng tác giả; sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả; sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền (trừ trường hợp có quy định khác); làm tác phẩm phái sinh nhưng không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền (trừ trường hợp có quy định khác), sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ thể quyền, không trả nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất (trừ trường hợp có quy định khác); cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả, hoặc chủ sở hữu quyền tác giả. nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông hoặc các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả , xuất bản tác phẩm không được phép của chủ sở hữu quyên tác giả, cố ý huỷ bỏ, làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền thực hiện để bảo vệ quyền; cố ý xoá bỏ, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong

tác phẩm; sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu biện pháp kỹ thuật để bảo vệ quyền của tác giả đối với tác phẩm của mình; làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo; xuất khẩu, nhập khẩu bản sao tác phẩm mà không được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép.

Bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam - 9

Chủ thể đối kháng trong các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu đối với quyền tác giả có thể là người được chủ sở hữu chuyển giao một quyền tài sản quyền tác giả nhưng đã vi phạm quy định về việc chuyển giao hoặc là chủ thể thực hiện một hoặc nhiều hành vi xâm phạm đến quyền tác giả đã nêu ở trên.

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Nghị định số 100/2006/NĐ- CPngày 21/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, bảo vệ quyền tác giả bằng các biện pháp dân sự bao gồm: Quyền tự bảo vệ bằng việc áp dụng các biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền tác giả; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Quyền tự bảo vệ bằng các biện pháp công nghệ trong việc ngăn chặn các hành vi tiếp cận tác phẩm, khai thác trái phép quyền tác giả quy định tại Điều 43 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP là việc các chủ thể quyền đưa ra các thông tin quản lý quyền của mình gắn với bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, đưa thông tin quản lý quyền xuất hiện cùng với việc truyền đạt tác phẩm tới công chúng nhằm xác định tác phẩm, tác giả của tác phẩm, chủ sở hữu, thông tin về thời hạn, điều kiện sử dụng tác phẩm và mọi số liệu, mã hiệu, ký hiệu thể hiện thông tin đó. Ví dụ: tổ chức họp báo ra mắt tác phẩm văn học, tác phẩm điện ảnh và công bố tác

giả, chủ sở hữu đối với tác phẩm, thông tin về hình ảnh in ấn tác phẩm để người đọc, người xem không bị nhầm lẫn khi sử dụng. Quyền tự bảo vệ quyền tác giả bao gồm cả việc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện đăng ký bản quyền đối với tác phẩm để có được chứng nhận. Quyền tác giả đối với tác phẩm phát sinh tại thời điểm tác phẩm sáng tạo được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định, không phân biệt tác phẩm đã công bố hoặc chưa công bố, đã đăng ký bảo hộ hoặc chưa đăng ký bảo hộ. Tuy nhiên, nếu tác giả sáng tạo đăng ký tác phẩm với Cục Bản quyền tác giả thì không có nghĩa vụ phải chứng minh quyền tác giả, quyền liên quan thuộc về mình khi có tranh chấp, trừ trường hợp có chứng cứ ngược lại [9,Điều 49]. Do đó tự bảo vệ bằng cách đăng ký bản quyền tác giả cũng là biện pháp hữu hiệu để thực thi quyền tác giả trên thực tế. Bên cạnh đó, việc tham gia vào một tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả cũng là cách để chủ sở hữu quyền tác giả nâng cao khả năng tự bảo vệ mình chống lại các hành vi xâm phạm quyền sở hữu như tạo ra tiếng nói tập thể đối với hành vi xâm phạm, thông qua tổ chức đại diện tập thể này thu các khoản thu hợp pháp… Ví dụ, sự ra đời của Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam đã hỗ trợ tích cực cho tác giả của các tác phẩm âm nhạc trong suốt 12 năm qua trong quá trình lên tiếng đòi bảo vệ quyền lợi cũng như đứng ra đại diện thu các khoản thu bất hợp pháp từ hành vi xâm phạm bản quyền âm nhạc từ các tổ chức, cá nhân. Quyền tự bảo vệ quyền tác giả còn được thể hiện ở yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại.

Các thiệt hại đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng thường là các thiệt hại có giá trị lớn, việc tự bảo vệ phần lớn không phát huy được tác dụng. Do đó, chủ sở hữu quyền tác giả thường sẽ lựa chọn phương thức bảo vệ có tính bảo đảm cao hơn chính là

khởi kiện ra Tòa án yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền tác giả chấm dứt hành vi xâm phạm; xin lỗi, cải chính công khai; thực hiện nghĩa vụ dân sự; bồi thường thiệt hại; buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền quyền tác giả với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền tác giả. Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của chủ sở hữu quyền tác giả theo biện pháp dân sự là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú, hoặc có trụ sở chính của bị đơn.

Để việc bảo vệ quyền tác giả của chủ sở hữu quyền có hiệu quả, chủ sở hữu quyền cần phải chuẩn bị các giấy tờ chứng minh yêu cầu của mình trước Tòa bao gồm các chứng cứ chứng minh quyền tác giả đối với tác phẩm của mình (trong trường hợp không có chứng nhận đăng ký quyền tác giả) hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giảbản trích lục Sổ đăng k ý quốc gia về quyền tác giả; bản sao hợp đồng sử dụng quyền tác giả nếu quyền tác giả phát sinh trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng. Chủ sở hữu quyền cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm quyền quyền tác giả mà người có hành vi xâm phạm đã thực hiện. Để có cơ sở yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chủ sở hữu quyền tác giả phải gánh chịu vì hành vi xâm phạm quyền tác giả, chủ thể quyền cần xác định được các thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả bao gồm: thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại; thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học [9,Điều 204]. Nguyên tắc xác định thiệt hại căn cứ trên tính thực tế và căn cứ vào quy định tại Điều 205 LSHTT bao gồm: tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện

hành vi xâm phạm quyền tác giả, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất; giá chuyển giao quyền sử dụng quyền tác giả với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện. Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo căn cứ trên thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng. Đối với thiệt hại về tinh thần, Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại.

Bên cạnh đó, khi khởi kiện hoặc quá trình tham gia tố tụng tại Tòa, chủ thể quyền có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể quyền tác giả; hoặc hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền tác giả hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm quyền tác giả có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời [9,Điều 206]. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng là thu giữ, kê biên, niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển, cấm chuyển dịch quyền sở hữu đối với hàng hóa... Biện pháp bảo vệ quyền tác giả thông qua Tòa án có thể được nhìn khái quát trong sơ đồ quy trình xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự được đăng tải trên website của Thanh Tra Bộ Khoa học Công nghệ tại phần Phụ lục.

2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản là nhà ở

Nhà ở là bất động sản gắn liền với đất, quyền sở hữu đối với nhà ở được nhà nước ghi nhận đối với tổ chức, cá nhân tạo lập hợp pháp nhà ở bao gồm tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức cá nhân nước ngoài và bảo vệ trên cơ sở Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhà ở là các hành vi xâm phạm,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/12/2022