Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Bmkd

một đặc điểm là được pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp nếu như quyền sử dụng này gắn với mục đích thương mại, kinh tế. Điều này hoàn toàn khác với quyền sử dụng tài sản hữu hình thông thường khác như nhà đất, máy móc, thiết bị… người sử dụng dùng chúng vào bất kỳ mục đích gì cũng phải xin phép và trả tiền thuê cho chủ sở hữu của những tài sản đó. Do đó, việc sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp trong đó có bí mật kinh doanh mà không nhằm mục đích kinh doanh thì không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu cũng như không phải xin phép hay trả thù lao cho chủ sở hữu.


Do tính chất riêng của BMKD mà khoản 3 Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ còn quy định các trường hợp chủ sở hữu không có quyền ngăn cấm người khác sử dụng BMKD, nên ngoài các chủ thể như đã nói ở phần 2.3 trên đây, pháp luật vẫn cho phép một số chủ thể khác được quyền sử dụng BMKD một cách hợp pháp. Sự hạn chế quyền trong các quy định này thể hiện đặc trưng riêng của BMKD, chỉ có chủ sở hữu BMKD mới phải chịu sự ảnh hưởng bởi những hạn chế quyền đó mà chủ sở hữu các đối tượng SHCN khác không bị hạn chế. Đó là các trường hợp sau:


Thứ nhất, người nào không biết và không có nghĩa vụ phải biết BMKD do người khác thu được một cách bất hợp pháp, thì có quyền bộc lộ, sử dụng BMKD đó. Đây là trường hợp có được BMKD một cách bất hợp pháp nhưng ngay tình. Ở đây chủ thể này không có lỗi do đó vẫn có quyền bộc lộ, sử dụng BMKD.


Thứ hai, người nào độc lập tạo ra BMKD cũng có quyền sử dụng BMKD đó. Con người trong quá trình lao động, nghiên cứu, tìm tòi mà tạo ra BMKD thì đương nhiên được sử dụng BMKD đó. Đây là kết quả của sự lao

động, sáng tạo và là quy luật của sự phát triển đi lên của con người và của xã hội. BMKD là thông tin do hoạt động trí óc con người tạo ra nên ai cũng có thể tạo ra nó, có người tạo ra trước, người tạo ra sau, đều là hợp pháp, đều có quyền sử dụng, không ai được ngăn cấm ai. Chủ sở hữu không có quyền ngăn cấm người khác bộc lộ, sử dụng BMKD nếu như người đó cũng bỏ thời gian, công sức, tiền của để sáng tạo ra BMKD đó mà không có sự liên hệ nào giữa hai chủ sở hữu với nhau về cả mặt ý tưởng sáng tạo, cách thức thực hiện ý tưởng, không có sự ăn cắp ý tưởng hay mô phỏng bất cứ cách thức làm việc nào của nhau. Mỗi người đểu sáng tạo ra BMKD một cách độc lập, không bên nào chịu ảnh hưởng bởi bên nào cho nên họ có quyền như nhau đối với BMKD của mình.


Thứ ba, người đã tiến hành phân tích, đánh giá sản phẩm được phân phối hợp pháp trên thị trường để tìm ra BMKD cũng được sử dụng BMKD nếu như không có thỏa thuận khác với chủ sở hữu BMKD hoặc người bán hàng. Việc phân tích ngược này cũng là hoạt động sáng tạo, nếu phân tích ngược mà tìm ra được BMKD thì đó cũng là sản phẩm của người phân tích và người đó cũng được sử dụng nó. Mặt khác, BMKD tuy được giữ bí mật nhưng sản phẩm làm ra do áp dụng BMKD lại được bán trên thị trường, các hoạt động quảng cáo cho BMKD được tiến hành trước công chúng nên bất kỳ người nào cũng có thể biết đến các yếu tố của BMKD thông qua các hoạt động trên. Chủ sở hữu BMKD không thể ngăn cấm họ tìm ra BMKD qua việc phân tích, đánh giá các sản phẩm đó vì đây là quyền nghiên cứu, khám phá của con người được pháp luật bảo vệ. Nếu pháp luật cho phép chủ sở hữu BMKD ngăn cấm việc này thì cũng không thực thi được trên thực tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.


BMKD được thể hiện trên bao bì sản phẩm và trong chính sản phẩm, khi đưa sản phẩm ra thị trường thì bằng công nghệ ngược,

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 10

đối thủ cạnh tranh có thể tìm ra những thông tin đó, họ có thể sản xuất loại hàng hoá tương tự. Hành vi này được coi là không vi phạm quyền đối với BMKD.[33]


2.5 Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD

BMKD cũng như các đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp, đều là những tài sản trí tuệ, có tính chất vô hình, việc xâm phạm chúng rất dễ dàng mà lại khó xác định và khó kiểm soát, thiệt hại cho chủ sở hữu lại thường rất lớn. Do đó, để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD, việc xác định những hành vi nào là xâm phạm BMKD và biện pháp bảo vệ là rất quan trọng.

2.5.1 Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh

Ở góc độ chủ thể quyền, việc xác định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với BMKD có ý nghĩa hướng dẫn chủ thể quyền trong việc tìm kiếm các cách thức, biện pháp bảo mật thông tin cần thiết. Ở góc độ các nhà lập pháp, xác định các hành vi xâm phạm BMKD là căn cứ quan trọng giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cơ quan tài phán có thể áp dụng có hiệu quả các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền, lợi ích của nhà nước và của toàn xã hội.

2.5.1.1 Các dạng xâm phạm bí mật kinh doanh

Luật Sở hữu trí tuệ với sự kế thừa các văn bản trước, đã quy định một cách đầy đủ và rõ ràng các hành vi xâm phạm BMKD tại Khoản 1 Điều 127. Theo đó, có rất nhiều hành vi xâm phạm BMKD, để thuận lợi cho việc nghiên cứu, việc áp dụng pháp luật, chúng ta có thể xếp các hành vi đó vào ba dạng chủ yếu sau:

Thứ nhất, dạng hành vi tiếp cận, thu thập thông tin BMKD bất hợp pháp

Tiếp cận, thu thập thông tin BMKD bất hợp pháp có thể là hành vi tiếp cận, thu thập thông tin thuộc BMKD bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp BMKD đó. Theo như Khoản 2 Điều 127 thì người kiểm soát hợp pháp BMKD bao gồm chủ sở hữu BMKD, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng BMKD và người quản lý BMKD. Như vậy, không chỉ riêng chủ sở hữu mới biết được BMKD và áp dụng các biện pháp bảo mật BMKD đó mà còn có các chủ thể khác cũng có thể biết, sử dụng hoặc quản lý BMKD như nhân viên trong công ty, người được chuyển giao quyền sử dụng thông qua hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng BMKD hoặc hợp đồng nhượng quyền thương mại. Họ là những người biết về BMKD nên là đối tượng để người khác tiếp cận thu thập thông tin thuộc BMKD.

Chủ thể thực hiện hành vi tiếp cận, thu thập thông tin BMKD bất hợp pháp có thể là bất kỳ người nào (như nhân viên của công ty, người ngoài công ty…) chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát. Ví dụ như việc nhân viên công ty cố tình lấy trộm tài liệu có chứa đựng các thông tin thuộc BMKD. Điều này có nghĩa là nếu một người nào đó vô tình biết được BMKD thì không bị coi là xâm phạm BMKD. Ví dụ hành vi vô ý để lộ thông tin thuộc BMKD của người kiểm soát BMKD như để mất tài liệu hoặc không áp dụng các biện pháp lưu trữ, bảo mật cần thiết: không khóa tủ đựng tài liệu, không cài đặt password cho file dữ liệu trong máy tính… khiến người khác vô tình biết được BMKD thì không bị coi là tiếp cận, thu thập thông tin BMKD bất hợp pháp.

Tiếp cận, thu thập thông tin BMKD bất hợp pháp còn có thể là hành vi lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm có được thông tin thuộc BMKD.

Người có nghĩa vụ bảo mật là người kiểm soát hợp pháp BMKD; người trực tiếp áp dụng BMKD vào hoạt động sản xuất kinh doanh như nhân viên, người lao động trong công ty; cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi xử lý hành vi xâm phạm BMKD hoặc những người được yêu cầu giải quyết tranh chấp liên quan đến đến BMKD thông qua các hình thức như thương lượng, hòa giải trọng tài , tòa án. Nghĩa vụ bảo mật của những người này có thể được xác lập trên cơ sở hợp đồng bảo mật, quy định của pháp luật hoặc có văn bản của chủ thể quyền.

Ngoài ra cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền khi cấp giấy phép kinh doanh, lưu hành dược phẩm, nông hóa phẩm trên cơ sở có yêu cầu của người nộp đơn cũng có nghĩa vụ bảo mật cho BMKD mà họ biết được trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình (Điều 128 – Luật SHTT).

Các giám định viên có nghĩa vụ bảo mật cho các kết quả giám định, các thông tin, tài liệu giám định (Khoản 4 Điều 44 – Nghị định 105).

Tóm lại, các hành vi tiếp cận, thu thập thông tin BMKD của bất kỳ đối tượng nào bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp BMKD, hoặc bằng cách lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm có được thông tin thuộc BMKD đều là các hành vi xâm phạm BMKD.

Thứ hai, dạng hành vi bộc lộ BMKD bất hợp pháp

Bộc lộ BMKD có nghĩa là làm cho BMKD không còn bí mật nữa. Việc bộc lộ BMKD cho những đối tượng khác nhau sẽ dẫn đến những hệ quả khác nhau đặc biệt là khi bộc lộ cho đối thủ cạnh tranh của công ty thì lợi thế của chủ sở hữu BMKD sẽ không còn, công ty đó sẽ mất đi cơ hội kinh doanh, thị phần của sản phẩm, dịch vụ… Và nếu BMKD bị bộc lộ công khai cho

công chúng biết được thì nó sẽ bị mất đi hoàn toàn tính bí mật dẫn đến một kết quả là nó không còn giá trị gì nữa.

Những hành vi bị coi là bộc lộ BMKD bất hợp pháp có thể chia thành hai loại.

Một là loại hành vi cố ý, chủ động bộc lộ thông tin bí mật nhằm mục đích nào đó dù đã biết mình có nghĩa vụ phải bảo mật cho thông tin bao gồm các hành vi: Bộc lộ BMKD mà không được phép của chủ sở hữu; Vi phạm hợp đồng bảo mật; Bộc lộ BMKD dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết BMKD đó do người khác thu được từ các hành vi bất hợp pháp.

Khác với dạng hành vi tiếp cận thu thập BMKD bất hợp pháp nói trên, chủ thể của hành vi bộc lộ BMKD bất hợp pháp loại này không phải là bất kỳ người nào mà có phạm vi hẹp hơn. Đó là những người biết về BMKD, gồm có người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh như người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng BMKD, người quản lý doanh nghiệp hoặc người trực tiếp quản lý và sử dụng BMKD vào hoạt động sản xuất kinh doanh và những người khác biết được thông tin BMKD.

Những người kiểm soát hợp pháp BMKD thực hiện hành vi bộc lộ BMKD bất hợp pháp với mục đích vụ lợi như bán thông tin cho đối thủ cạnh tranh, hoặc vì lý do cá nhân nào khác như muốn gây thiệt hại cho chủ sở hữu BMKD, muốn cản trở sự phát triển của chủ sở hữu BMKD mà bộc lộ thông tin bí mật ra bên ngoài làm mất đi lợi thế trong kinh doanh của chủ sở hữu BMKD đó. Việc bộc lộ thông tin trong trường hợp này thường kèm theo việc vi phạm hợp đồng bảo mật.

Chủ thể của dạng hành vi này ngoài những người kiểm soát hợp pháp BMKD nói trên còn có một số chủ thể khác trong những trường hợp nhất định có thể thực hiện hành vi bộc lộ BMKD bất hợp pháp.

Thứ nhất, trong các trường hợp giải quyết tranh chấp liên quan đến BMKD bằng các hình thức như trọng tài, tòa án hoặc trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm có liên quan đến BMKD thì sẽ có thêm một số người biết đến thông tin bí mật đó. Những chủ thể này có nghĩa vụ bảo mật theo quy định của pháp luật hoặc do yêu cầu của chủ sở hữu BMKD hoặc trên cơ sở các cam kết về bảo mật. Do đó, nếu họ bộc lộ BMKD trái với ý chí của chủ sở hữu hoặc vi phạm hợp đồng bảo mật thì họ cũng sẽ trở thành chủ thể của hành vi xâm phạm BMKD.

Thứ hai, đó là trường hợp: cơ quan nhà nước, công chức nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh, lưu hành dược phẩm, nông hóa phẩm cũng là người biết về thông tin bí mật kinh doanh nên họ cũng có nghĩa vụ bảo mật trên cơ sở yêu cầu bảo mật của người nộp đơn (Điều 128 - Luật SHTT); và trường hợp giám định viên phải giữ bí mật về kết quả giám định, các thông tin, tài liệu giám định được quy định tại điểm e khoản 4 Điều 44 Nghị định 105. Các hành vi bộc lộ BMKD của những người này cũng bị coi là hành vi xâm phạm BMKD.

Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nếu việc bộc lộ bí mật là cần thiết để bảo vệ cho công chúng thì các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước có thẩm quyền sẽ không bị coi là chủ thể của hành vi xâm phạm BMKD. Vấn đề này đã được quy định rõ tại khoản 3 Điều 9 – Quy định bảo mật dữ liệu thử nghiệm nông hóa phẩm, ban hành theo Quyết định số 69/2006/QĐ-BNN ngày 13/9/2006 của Bộ trưởng Bộ phát triển nông nghiệp và nông thôn như sau: “Trong trường hợp cần thiết vì sức khỏe cộng đồng, an toàn môi trường hoặc an ninh quốc gia với sự đồng ý bằng văn bản của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn được phép cung cấp thông tin có liên quan đến dữ liệu thử nghiệm được bảo mật đến các đối tượng có thẩm quyền liên quan nhưng phải thông báo

bằng văn bản cho người có dữ liệu thử nghiệm được bảo mật biết và có biện pháp hạn chế khả năng lợi dụng những thông tin được tiết lộ để cạnh tranh không lành mạnh.”

Riêng đối với trường hợp bộc lộ BMKD dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết BMKD đó do người khác thu được từ các hành vi bất hợp pháp thì chủ thể của hành vi có thể là bất kỳ người nào. Đây chính là trường hợp có được BMKD một cách bất hợp pháp không ngay tình và bộc lộ BMKD đó. Hành vi này đương nhiên là hành vi xâm phạm BMKD bất hợp pháp.

Hai là, loại hành vi cố ý, chủ động lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm làm bộc lộ BMKD. Chủ thể của hành vi này cũng là bất kỳ người nào, thường là muốn gây hại cho chủ sở hữu BMKD nên thực hiện hành vi lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật khiến cho người có nghĩa vụ bảo mật này bộc lộ BMKD. Loại hành vi này tuy không trực tiếp bộc lộ BMKD nhưng gián tiếp làm cho BMKD bị bộc lộ với động cơ, mục đích gây thiệt hại cho chủ sở hữu BMKD nên đương nhiên cũng là hành vi xâm phạm BMKD. Trong các trường hợp này, cần phải lưu ý rằng chủ thể của hành vi tiết lộ BMKD bất hợp pháp chính là người có hành vi lừa gạt, xui khiến… chứ không phải là người có nghĩa vụ bảo mật đã bộc lộ thông tin, tiết lộ ngoài ý muốn. Ví dụ như trường hợp đối thủ cạnh tranh của công ty A mua chuộc người quản lý BMKD của công ty A để người quản lý này bộc lộ BMKD, chủ thể của hành vi bộc lộ BMKD bất hợp pháp ở đây không phải là người quản lý BMKD mà là người có hành vi mua chuộc.

Thứ ba, dạng hành vi sử dụng BMKD bất hợp pháp

Quyền sử dụng BMKD là quyền của chủ sở hữu và những người khác được chủ sở hữu cho phép. Họ có thể là đối tác của công ty có được quyền sử dụng BMKD trên cơ sở hợp đồng chuyển quyền sử dụng BMKD hoặc hợp đồng nhượng quyền thương mại; họ có thể là nhân viên công ty hay người lao

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí