Phương án 2:
Chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Điều 185. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình
Phương án 1:
1. Chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác không có quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản từ người thứ ba chiếm hữu ngay tình được quy định tại Điều 135 của Bộ luật này.
2. Trách nhiệm dân sự của người không có quyền định đoạt mà đã chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình thì áp dụng theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật này.
Phương án 2:
1. Chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
2. Trách nhiệm dân sự của người không có quyền định đoạt mà đã chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình thì áp dụng theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật này.
Điều 186. Quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, các vật quyền khác
Có thể bạn quan tâm!
- Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Thông Qua Cơ Quan, Tổ Chức Có Thẩm Quyền Không Phải Là Tòa Án
- Giải Pháp Hoàn Thiện Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự
- Ý Kiế N Đ Ố I Vớ I Mộ T Số Quy Đ Ị Nh Liên Quan Đ Ế N Bả O Vệ
- Bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
Khi thực hiện quyền sở hữu, các vật quyền khác, chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
Điều 187. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
Chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, vật quyền khác bồi thường thiệt hại” [21]
Về cơ bản quy định trong 7 Điều nêu trên đã khắc phục được những bất cập trong quy định của BLDS hiện hành về Bảo vệ quyền sở hữu như thừa nhận bảo vệ vật quyền, ghi nhận bảo vệ quyền sở hữu tại một Điều khoản thay vì để quy định tại 2 Điều: Điều 169 và Điều 255 BLDS hiện hành cũng như quy định gọn các biện pháp tự bảo vệ; bỏ quy định bảo vệ quyền sở hữu của người không phải là chủ sở hữu thay vào đó là bảo vệ đối với chủ thể có vật quyền… Tuy nhiên, đối với quy định về biện pháp tự bảo vệ tại Khoản 1 Điều 182 Dự thảo quy định “chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, các vật quyền khác, truy tìm, đòi lại tài sản, vật quyền khác bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật” [21] là chưa đầy đủ, cần quy định thêm về việc yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại đối với chủ sở hữu và chủ thể có vật quyền khác để chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền có thêm quyền tự bảo vệ thông qua việc thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại hợp lý khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, vật quyền gây ra.
Đối với các phương án được đưa ra lấy ý kiến tại Điều 184 và Điều 185 của Dự thảo, người viết có quan điểm như sau:
Điều 184 Dự thảo về quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình nên lựa chọn phương án thứ 2, tức là loại bỏ trường hợp chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền được đòi lại động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản. Người chiếm hữu ngay tình thông qua hợp đồng không có đền bù tuy không phải bỏ ra một lợi ích nào để có được sự chiếm hữu tài sản nhưng tài sản trong trường hợp này rời khỏi sự chiếm hữu của chủ sở hữu hoặc chủ thể có vật quyền trên cơ sở họ biết và người chiếm hữu ngay tình xác lập quyền chiếm hữu tài sản thông qua một hợp đồng hợp pháp với người được coi là người có quyền đối với tài sản thông qua sự suy đoán của người thứ ba về vật quyền của người đã chuyển giao tài sản cho mình. Vì vậy, trong trường hợp này họ cũng cần được bảo vệ quyền chiếm hữu đối với tài sản.
Điều 185 Dự thảo về quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình nên áp dụng phương án thứ 1, tức là giữ nguyên quy định như BLDS hiện hành, nghĩa là chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác do bản án, quyết định bị huỷ, sửa. Việc xác lập giao dịch của người thứ ba chiếm hữu ngay tình ban đầu là chiếm hữu có căn cứ pháp luật nhưng do sai lầm trong hoạt động của cơ quan đấu giá, cơ quan quản lý, cơ quan tố tụng mà sau đó sự chiếm hữu có căn cứ pháp luật chuyển hóa thành căn cứ không có pháp luật mà người chiếm hữu không thể biết được. Việc bảo vệ người thứ ba chiếm hữu ngay tình trong trường hợp này là cần thiết, đồng thời nhằm quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi thực hiện các hoạt động của mình đảm bảo cho các giao dịch được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
3.2. Giải pháp nâng cao khả năng bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế
Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm tạo cơ chế cho việc bảo vệ quyền sở hữu được nhà nước thừa nhận cũng như đảm bảo thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế, việc bảo vệ quyền dân sự được thực hiện như thế nào lại phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tự bảo vệ của người có quyền cũng như năng lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác hỗ trợ chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản.
Trước hết, về mặt thực tiễn, để nâng cao khả năng bảo vệ quyền sở hữu cần phải lưu ý đến khả năng tự thực hiện biện pháp bảo vệ sở hữu của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người không phải là chủ sở hữu nhưng được nhà nước công nhận và bảo vệ quyền lợi chính thông qua việc phổ biến, giáo dục, tuyên truyền pháp luật để họ hiểu về quyền và giới hạn quyền mà mình được thực hiện cũng như những biện pháp bảo vệ sở hữu mà nhà nước trao cho họ nhằm giúp họ thực hiện tốt nhất việc bảo vệ sở hữu của mình trên thực tế. Căn cứ trên nguyên tắc thỏa thuận, tự nguyện được quy định xuyên suốt trong quá trình giải quyết các tranh chấp về dân sự nói chung và các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu nói riêng, biện pháp tự bảo vệ là biện pháp được nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các bên thực hiện. Cùng với việc nâng cao hiểu biết, người có quyền cũng nâng cao khả năng sử dụng các biện pháp tự bảo vệ sở hữu mà không vi phạm các quy định của luật hành chính, hình sự. Sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức về mặt thông tin cũng là cách để chủ sở hữu thực hiện biện pháp tự bảo vệ có hiệu quả hơn. Hoạt động hòa giải tại địa phương thông qua các tổ chức chính trị, chính trị xã hội cũng là một kênh quan trọng giúp các bên trong quan hệ hiểu rõ về quyền và lợi ích của mình cũng như thêm một lựa chọn để người có quyền có thể tự bảo vệ quyền sở hữu thông qua sự hỗ trợ từ các tổ chức này gửi đi thông điệp và kêu gọi người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu thực hiện chấm dứt hành vi cản
trở, hành xi xâm phạm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản, trả lại tài sản hay bồi thường thiệt hại cho người có quyền.
Thứ hai, cần nâng cao khả năng hòa giải, giải quyết tranh chấp của cơ quan Tòa án nói chung và cán bộ Tòa án nói riêng. Khi mọi nỗ lực tự thỏa thuận, dàn xếp không thành, thông thường, người có quyền sẽ lựa chọn phương thức khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hoạt động khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền của chủ thể có quyền được bảo đảm hay không phụ thuộc phần lớn vào năng lực, sự công tâm của cơ quan Tòa án. Hòa giải trong vụ án dân sự nói chung và hòa giải khi Tòa án giải quyết các yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu của chủ thể quyền nói riêng thể hiện đầy đủ việc tôn trọng nguyên tắc thỏa thuận của các bên trong quan hệ. Việc thỏa thuận giữa hai bên thông thường được thực hiện trước khi người có quyền khởi kiện ra Tòa án nhưng do hai bên đều khăng khăng bảo vệ lợi ích của mình dẫn đến việc thỏa thuận trong nhiều trường hợp khó thành. Công tác hòa giải của Tòa án bắt đầu từ khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm đến vụ án được Tòa đưa ra xét xử cần phải được nâng cao để hướng các bên đạt đến một sự thỏa thuận thay vì phải xét xử công khai. Tòa án với vai trò cơ quan xét xử theo quy định của pháp luật, cũng đóng vai trò là cơ quan phổ biến pháp luật đối với các bên tranh chấp. Với sự tham gia của Tòa án – một chủ thể thứ ba trung gian mang quyền lực nhà nước – các quy định pháp luật, lý lẽ phân tích và hệ quả pháp lý mà Tòa án đưa ra thông thường khiến các bên tin tưởng và thuận theo cao hơn so với việc hai bên tự thỏa thuận. Do đó, vai trò trong hòa giải của Tòa án nói chung và thẩm phán thực hiện hòa giải nói riêng rất quan trọng. Để có thể tác động đến đối tượng hoà giải nhằm hàn gắn những mâu thuẫn giữa hai bên và tạo cơ hội, điều kiện để họ tự thương lượng với nhau giải quyết tranh chấp, các cán bộ tòa án cần được đào tạo, nâng cao kỹ năng hòa giải như kỹ năng lập kế hoạch hòa giải, kỹ năng giao tiếp với các bên đương sự khi thực hiện hoà giải, kỹ năng xử lý tình huống… Đạt được sự thống nhất,
thỏa thuận giữa hai bên trong nhiều trường hợp chính là thành công lớn nhất của Tòa án. Trong trường hợp, mặc dù đã hỗ trợ tích cực hai bên thỏa thuận, thương lượng những không thành thì Tòa án sẽ thực hiện xét xử theo yêu cầu của các bên. Khi đó kỹ năng giải quyết vụ án của thẩm phán tại Tòa lại được chú trọng hơn cả. Trên thực tế, các yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu của các tổ chức, cá nhân có thể được thực hiện hướng đến đối tượng tài sản được bảo vệ rất đa dạng, đó có thể là đất đai, nhà ở, quyền sở hữu trí tuệ, giấy tờ có giá… Để có thể thực hiện tốt vai trò xét xử, các thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử phải là người có hiểu biết về các loại tài sản trên để có thể đưa ra các yêu cầu cung cấp chứng cứ, chứng minh của các bên cũng như xác định về hành vi xâm phạm đối với tài sản mà các bên đang có yêu cầu. Trên thực tế, các tòa án mà bên bị vi phạm thực hiện khởi kiện yêu cầu bên có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi trái pháp luật, trả lại tài sản hay bồi thường thiệt hại thường là Tòa án nhân dân cấp huyện, thị. Trong khi đó, các Tòa án này thường ít có kỹ năng giải quyết các vụ án liên quan đến tài sản là quyền sở hữu trí tuệ dẫn đến nhiều trường hợp lúng túng trong quá trình giải quyết, ảnh hưởng đến quyền lợi của người khởi kiện. Bên cạnh đó, việc thực hiện giải quyết tranh chấp tại Tòa còn gặp nhiều vấn đề về mặt trình tự, thủ tục tố tụng dẫn đến sai sót trong quá trình xác định chủ sở hữu tài sản đích thực đối với tài sản. Theo quy định bảo vệ người thứ ba chiếm hữu ngay tình đối tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký sở hữu do thực hiện giao dịch với người là chủ sở hữu trên cơ sở bản án của Tòa nhưng sau đó bản án bị tuyên hủy, sửa được bảo vệ dẫn đến, người có quyền sở hữu đích thực với tài sản lúc này không có lựa chọn đòi lại tài sản mà chỉ còn cách yêu cầu Tòa án bồi thường…
Nội dung quan trọng thứ ba trong việc nâng cao khả năng bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế chính là nâng cao khả năng thi hành bản án, quyết định của Tòa. Mục đích của các bên khi tham gia quy trình tố tụng tại Tòa là mong muốn có sự giải quyết đúng đắn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình cũng như có được sự đảm bảo thi hành các quyết định đó trên thực tế. Tuy nhiên, công tác thi hành án trong nhiều trường hợp còn chậm trễ, kéo dài xuất phát từ nhiều nguyên nhân như bản án có hiệu lực thi hành của Tòa nhưng lại thiếu tính thi hành trong thực tiễn, xuất phát từ việc thiếu trách nhiệm, cẩu thả trong việc tống đạt các quyết định, yêu cầu thi hành án của cơ quan thi hành án, từ sự trây ỳ, thiếu hợp tác từ người buộc phải thi hành quyết định của Tòa án... Do đó, để đảm bảo khả năng bảo vệ quyền sở hữu, cần phải có các biện pháp nâng cao khả năng thi hành án cũng như nâng cao khả năng, trách nhiệm của các cơ quan thi hành án trong thực tế.
KẾT LUẬN
Nhận thức được tầm quan trọng của bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự, luận văn đã hướng người đọc tới cái nhìn khái quát về các đặc trưng của bảo vệ quyền sở hữu cũng như phân tích, đánh giá các biện pháp bảo vệ, góp phần phong phú thêm các công trình nghiên cứu về bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự. Các kết quả đạt được, cụ thể như sau:
Thứ nhất, luận văn đã khái quát hóa các đặc trưng của bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân Việt Nam trên các đặc điểm về mục đích bảo vệ, chủ thể thực hiện biện pháp bảo vệ, chủ thể đối kháng, thời điểm thực hiện biện pháp bảo vệ, các biện pháp bảo vệ và nguyên tắc trong bảo vệ quyền sở hữu. Đồng thời, luận văn đã phân tích nhằm phân biệt bảo vệ sở hữu theo pháp luật dân sự với bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật hành chính và pháp luật hình sự. Trên cơ sở đó, chỉ rõ được ưu điểm mà bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự mang lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp khi thực hiện bảo vệ quyền sở hữu theo quy định này.
Thứ hai, luận văn đã phân tích làm rõ các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam, bao gồm: biện pháp tự bảo vệ, biện pháp bảo vệ quyền sở hữu thông qua Tòa án và biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
thông qua cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không phải là Tòa án để yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm, trả lại tài sản hay bồi thường thiệt hại. Cũng như, cụ thể hóa các điều kiện về mặt nội dung, thủ tục thực hiện bảo vệ quyền sở hữu đối với từng biện pháp bảo vệ quyền sở hữu. Đồng thời, luận văn cũng chi tiết quy định về bảo vệ quyền sở hữu đối với một số loại tài sản nhất định để làm rõ hơn các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự. Các chủ thể có quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền sở hữu khi tham khảo luận văn này có thể có được hướng dẫn tổng quát để thực hiện bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án, áp dụng ngay trong thực tiễn.
Thứ ba, người viết cũng đưa ra ý kiến cá nhân đóng góp vào quá trình hoàn thiện quy định pháp luật dân sự liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu cũng như nâng cao khả năng bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn. Trong đó, người viết đã đưa ra quan điểm riêng đối với quy định tại Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, bổ sung mà Bộ Tư pháp thực hiện lấy ý kiến từ tháng 6/2014 liên quan đến phần nội dung luận văn thực hiện, nhằm đa dạng các ý kiến góp ý đối với Dự thảo.